Chính sách của Mỹ và những tác động tới châu Á - Thái Bình Dương

Kinh tế, an ninh, các điểm nóng về tranh chấp lãnh thổ… tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ chịu tác động ra sao bởi các chính sách của chính quyền Tổng thống Donald Trump đang là vấn đề được dư luận rất quan tâm. Những băn khoăn phần nào tìm được lời giải đáp ở hội thảo có chủ đề “Chính sách của chính quyền Trump: Những tác động đối với an ninh và sự phát triển tại châu Á - Thái Bình Dương” tại Trường ĐH Havard (Mỹ).

Cần chiến lược lâu dài

Tham luận của các diễn giả tại hội thảo xoay quanh những chủ đề đang được dư luận quan tâm như: các liên minh của Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương trong kỷ nguyên mới; các khả năng chính sách của chính quyền Tổng thống Donald Trump đối với vấn đề biển Đông; các đối tác ngoại vi và an ninh tại châu Á - Thái Bình Dương; những phương án thay thế cho Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP); tác động của chính sách mậu dịch mới của Mỹ đối với Việt Nam.

Quang cảnh buổi hội thảo “Chính sách của chính quyền Trump: Những tác động đối với an ninh và sự phát triển tại châu Á - Thái Bình Dương”

Về vấn đề an ninh, các diễn giả đều nhấn mạnh đến tính chất chưa rõ ràng trong chính sách của chính quyền mới đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Điều này khiến các đối tác khu vực của Mỹ thêm quan ngại trong bối cảnh trật tự hiện nay của thế giới có nguy cơ bị đảo lộn do cuộc cạnh tranh giữa một bên là những cường quốc muốn thay đổi và một bên là những cường quốc muốn duy trì nguyên trạng. Theo một số diễn giả, việc chính quyền mới ở Mỹ có xu hướng lơ là khu vực châu Á - Thái Bình Dương, thay vào đó chú trọng trở lại khu vực Trung Đông, có thể khiến các điểm nóng tại khu vực (như biển Đông và biển Hoa Đông) thêm căng thẳng trong thời gian tới.

Trước viễn cảnh đó, giáo sư Ngô Vĩnh Long của ĐH Maine cùng một số chuyên gia khác đưa ra khuyến nghị, chính phủ các quốc gia nhỏ chuẩn bị những chiến lược lâu dài, thay vì duy trì cách tiếp cận lâu nay là đối phó kiểu nước đến chân mới nhảy.

Bảo hộ không phải là giải pháp

Về vấn đề tự do mậu dịch, các diễn giả đều giảm nhẹ tác động của việc Mỹ rút khỏi TPP đối với nền kinh tế Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh Việt Nam phải ở tâm thế sẵn sàng đàm phán với Mỹ một hiệp định thương mại tự do song phương. Cụ thể, giáo sư chuyên về kinh tế phát triển Đông Á của ĐH Havard David Dapice đưa ra 4 kiến nghị cho Việt Nam, gồm: Tập trung vào những hoạch định trong kế hoạch công nghiệp để đưa ngành công nghiệp trong nước có khả năng và sức cạnh tranh cao hơn; quan sát xem liệu Nhật Bản và Australia có muốn tiếp tục thúc đẩy TPP nữa không khi không còn sự tham gia của Mỹ; cần sẵn sàng đàm phán với Mỹ một hiệp định thương mại tự do song phương giống như Singapore và Hàn Quốc từng làm; thăm dò động thái của Trung Quốc trong việc thúc đẩy một khối thương mại trên nền tảng Trung Quốc.

Trong khi đó, tiến sĩ Vũ Quang Việt, nguyên Vụ trưởng Vụ Tài khoản quốc gia, Cục Thống kê của Liên hiệp quốc đưa ra một loạt cảnh báo về nền kinh tế Mỹ. Theo đó, thâm hụt mậu dịch của Mỹ là vấn đề nghiêm trọng suốt hơn 30 năm qua, người Mỹ tiêu dùng quá khả năng của mình nhờ đồng USD vẫn đang được chấp nhận là đồng tiền thanh toán quốc tế. Do năng suất lao động tăng nhanh, tăng trưởng kinh tế của Mỹ đang gia tăng ở tốc độ cao hơn nhiều so với mức gia tăng việc làm. Trong giai đoạn 2000 - 2016, thị trường việc làm Mỹ tăng trung bình 0,5%/năm, song dân số ở độ tuổi đi làm (16 - 64 tuổi) lại tăng 0,9%/năm. Do vậy, các biện pháp bảo hộ thương mại khó có thể đem lại việc làm cho người Mỹ. Nước Mỹ chỉ còn rất ít hoạt động chế tạo, thâm hụt mậu dịch vẫn cao và nước Mỹ sẽ tiếp tục in tiền để chi tiêu cho đến khi thế giới không chấp nhận đồng USD nữa.

ĐỖ CAO (tổng hợp)

Tin cùng chuyên mục