Bao nhiêu lần qua lại làng biển Cảnh Dương (Quảng Trạch, Quảng Bình), tôi cứ da diết với điệu hát bên chân sóng, nơi đàn ông hát ru hay hơn phụ nữ...
Điệu “hò hẻ...” không nơi nào có
Bên trong tâm hồn của người làng Cảnh Dương có lịch sử hơn 370 năm này là cả “kho tàng” về hát hò trong dặm dài mưu sinh lập làng. Từ những nóc nhà ban đầu dưới chân núi Hoành Sơn, các bậc khai canh của hàng trăm năm trước đã sáng tác điệu hát ru cho người đàn ông và lưu truyền từ đó đến nay.
Người đàn ông hát ru hay nhất làng hiện là Nghệ nhân ưu tú, cụ Phạm Ngọc Thức (80 tuổi). Vừa xắn tay sửa lưới trên tàu cá, cụ Thức vừa hát điệu: “Hò hẻ hò hè, bôồng bôổng bôồng bôồng/ Sáng ra lên núi đốt than/ Chiều về xuống biển, đào hang bắt còng/ Hò hẻ hò hè, bôồng bôổng bôồng bôồng/ Trông ra ngoài biển lu mù/ Thấy anh câu đục câu đù em thương...”.
Thường các làng biển mở đầu lời hát của mình là “Hò ơi...” hoặc “À ơi...” nhưng Cảnh Dương lại ru mình bằng điệu: “Hò hẻ hò hè, bôồng bôổng bôồng bôồng”. Đấy là điệu ca cổ cho đến nay trong xứ Cảnh Dương vẫn còn nhiều người như cụ Thức hát. Ông cho hay, đây là gia tài duy nhất chỉ làng Cảnh Dương mới ngâm được làn điệu này, những làng biển kề cạnh có học mấy cũng không ngâm đúng lời “Hò hẻ...”. Người Cảnh Dương có giọng nói khác với các làng khác ở Quảng Bình, phát âm gần giống như người miền Bắc và cụ Thức lý giải: “Hò hẻ…” là cách tạo ra sự bắt chước tiếng sóng vỗ mạn thuyền gần bờ hoặc xa bờ rồi bảo chúng tôi lắng nghe tiếng sóng ì oạp đang đánh vào con thuyền và nói hãy nghe như điệu cổ: “Hò hẻ...” sẽ thấy đúng nhịp. Liền đó, cụ Thức vừa nhìn lên núi Hoành Sơn vừa tiếp tục hát: “Hò hẻ hò he, bôồng bôổng bôồng bôồng/ Ơ... ơ ơ...lên non... mới biết... non cao/ Nuôi con... à ơ... mới biết... công... lao... mẹ thầy/ Ơ... ơ... ơ... ơ... ơ/ Chim trời ai dễ đếm lông/ Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày/ Hò hẻ hò he bôồng bôổng bôồng bôồng/ Mẹ già như chuối chín cây/ Như xôi nếp mỏng như đường mía lau/ Hò hẻ hò hè, bôồng bôổng bôồng bôồng...”.
Cụ Thức, nghệ nhân 80 tuổi, hát ru hay nhất làng
Thật ra, ở Cảnh Dương mẹ ru con, bà ru cháu là chuyện thường tình, nhưng đàn ông không biết hát ru là chuyện khó có thể chấp nhận từ các thế hệ trước truyền lại. Cha phải ru con, ông phải ru cháu, anh trai phải ru em, bạn thuyền trên biển phải biết ru nhau và tự ru chính mình.
Cụ Thức tiết lộ: “Chú biết vì răng mà cha phải ru con, ở đây người ta gọi là bọ, bọ phải ru con, còn mạ (mẹ) không ru con khi có mặt bọ. Cũng vì cha đi biển lâu ngày mới về, lúc về không ở nhà ru con thì mần răng vợ ra chợ bán cá được. Từ đó tiếng hát của đàn ông ru con bắt đầu: Hò hẻ hò he, bôồng bôổng bôồng bôồng”.
Cụ Thức từng nhiều năm đi biển, kể lại sự da diết nhớ đất liền, nhớ vợ con: “Nhớ đến dại người, ở trên thuyền lênh đênh cả tháng, toàn đàn ông với nhau, suốt ngày giáp mặt nhau với vị mặn chát của sóng. Công việc trần ai dưới nắng gắt rồi bão tố, lúc đó phải tự ru mình. Bọn tôi vẫn hay hát với nhau: “Một mình anh chống liền chèo/ Lấy ai tát nước sang lèo cho anh/ Lấy anh thấy đói đừng lo/ Lấy anh tát nước miệng hò kéo neo/ bôồng bôổng bôồng bôồng, hò hẻ hò he/ Ra đi thì khổ mình ta/ Ở nhà thì đói cả bà liền con/ Ra đi thì sợ lỗ mồi/ Ở nhà thì lại đứng ngồi không yên/ bôồng bôổng bôồng bôồng, hò hẻ hò he”. Khi hát giữa biển, điệu “hò hẻ...” lại đệm giữa hoặc đệm cuối, có khi đệm liên tục “Cho bớt đi cái buồn cô liêu trên sóng mênh mông chi khứ”, cụ Thức bày tỏ.
Những thanh niên nhớ người yêu thì hát da diết: “Sông cùng mà biển không cùng/ Trời cao có hảm anh hùng mãi đâu/ Lấy anh thấy đói đừng lo/ Tay anh tát nước, miệng anh hò kéo neo”, đấy là lời nhắn nhủ rằng: em đừng thấy anh nghèo mà không ưng, anh có tài làm thuyền đi biển, lao động siêng năng thì rồi có tất cả. Nghe vậy, toán khác trên thuyền lại ru: “Cha mẹ em muốn ăn cá Khiêng/ Cho nên anh phải đóng thuyền ra khơi”. Cụ Thức giải thích: “Anh lấy em rồi thì phải yêu một mình em thôi, không yêu phụ nữ khác và phải yêu cả ông bà, cha mẹ của em như cha mẹ anh. Nay cha mẹ em muốn ăn cá Khiêng, một loài cá ngon thì anh phải đóng thuyền ra khơi đánh bắt về để thể hiện trọn đạo hiếu với bố mẹ vợ và thủy chung với người mình thương”. Và có những câu nhớ người yêu đến cồn cào cả sóng biển: “Hò hẻ hò hè, bôồng bôổng bôông bôông/ Đêm qua anh gối tay nàng/ Ngày nay ra biển, anh gối đàng dây neo/ Hò hẻ hò hè, bôồng bôổng bôông bôông…”.
Giá trị điệu cổ
Khi chồng đi biển, ở nhà đàn bà tự ru mình: “Lấy anh không đói mà lo/ Tay anh tát nước miệng hò kéo neo/ Một là em thấy đói mà chê/ Hai là em thấy xa quê mà buồn/ Sông sâu phải kiếm sào dài/ Cửa nhà anh đang đứng kiếm một người nhanh tay/ Thuyền than mà đậu bến than/ Thấy anh vất vả cơ hàn em thương/ Thuyền than mà đỗ bến chiều/ Anh không vất vả lấy gì nuôi con/ bôồng bôổng bôồng bôồng, hò hẻ hò he/ Bà ơi bà thổi gió đông/ Cho ghe tui xuống, cho chồng bà lên/ bôồng bôổng bôồng bôồng, hò hẻ hò he”, mệ Đỗ Thị Lài, một nghệ nhân ở Cảnh Dương, tái hiện lời ru của người phụ nữ lúc chồng đi xa.
Đôi khi người vợ thấy chồng đi xa biền biệt cũng muốn lên chùa đi tu, nhưng nhìn sang bố mẹ chồng lại không đành, mệ Lài hát tiếp: “Lên chùa thấy Phật muốn tu/ Về nhà thấy mẹ mà tu không thành/ bôồng bôổng bôồng bôồng, hò hẻ hò he/ Tu đâu cho bỏ tu nhà/ Nhường cha kính mẹ cũng là đi tu”. Cũng bởi, mẹ chồng đã chăm con đến thế này: “Chim trời ai dễ đếm lông/ Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày”. Thế nên người vợ tự ru mình: “Nuôi con ai kể tiền cơm/ Nuôi chồng ai kể công ơn vợ chồng”. Từ đó mà răn dạy con cái: “Mẹ không ước cửa sang giàu/ Mẹ mong con nhớ nơi nào sinh con/ bôồng bôổng bôồng bôồng, hò hẻ hò he”.
Cụ Thức cho rằng, những lời hát có vẻ cổ hủ nhưng có giá trị nhân văn vô cùng. Nó là dây neo để người làng cố kết lại, chắt chiu tình cảm, nương tựa vào nhau mà dựng làng, làm ăn cho tới ngày hôm nay. Trí tuệ trai gái Cảnh Dương cũng dựng ra nhiều câu ru nhau về tình yêu khó tìm ra ở bất cứ miền biển nào. Khi con trai hát: “Một mình anh cả chống liền chèo/ Lấy ai tát nước sang chèo cho anh”, có ý nói chưa có vợ con, cần người chung chí hướng. Không vì thế con gái Cảnh Dương động lòng ngay mà lại hát: “Muốn cho con Sủ 3 đòn/ Con Sơn, con Ngản sông Roòn thiếu chi”, đấy là lời khuyên chàng trai cần ra sông Roòn bắt cá hiếm dựng nghiệp làm giàu.
Cụ Thức kể một lời ru cổ khác. Xưa, có hai anh em trong làng mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lớn lên rau cháo bên nhau. 35 tuổi người anh có vợ, từ đó người anh cần cù hơn em nên tôm cá dồi dào, gia thất sung túc. Đối lại, người em chỉ quanh quẩn gần bờ nên đánh bắt yếm thế, cuộc sống khó nghèo nên sinh lòng đố kỵ. Người chị dâu thương em, muốn mách ngư trường chồng đánh cá nhưng lại sợ bị mắng nên mỗi lần chồng đi biển, chị lại tự hát ru mình để mách chỗ cho em: “Lối La… ba hỡi… lối La./Đã mất giấc ngủ lại xa đường chèo/ Không bằng cật xước, làng leo/ Đã nhẹ đường chèo được gạo con ăn”, hát mãi người em nghe ra, biết anh trai đang đánh cá ở lối vịnh Hòn La liền dong thuyền ra đó. Anh em gặp nhau giữa biển bao la nên hỗ trợ nhau, bao hiềm khích tan biến như bọt nước, họ thuận hòa như xưa, xây dựng gia đình khá lên từ những chuyến biển như thế.
Từ đó, người chị dâu lại hát: “Con cá không nương cây cũng có ngày bão dầy sóng dập/ Con người không thương nhau cũng có ngày sống vật, sống vờ/ Anh em thương nhau rồi nên giữ trọn ước mơ/ Buông câu thả lưới để sớm hôm chung thuyền”. Lạ một điều, vì sao cá dưới biển mà phải nương cây, hỏi nhiều lão ngư mới biết, loài cá đó thích những thứ cây như tre, hoặc cây nhiều lá do ngư dân thả xuống biển, chúng nương vào đó sinh sống và đẻ con. Lấy con cá để nói chuyện chung tình, người xứ biển thật biết ví von trữ tình.
MINH PHONG