Mở cửa thị trường bán lẻ dược phẩm: Yêu cầu cạnh tranh công bằng, minh bạch

Sẵn sàng vào sân chơi lớn
Mở cửa thị trường bán lẻ dược phẩm: Yêu cầu cạnh tranh công bằng, minh bạch

Cứ ngỡ việc Việt Nam mở cửa thị trường bán lẻ - thực hiện lộ trình cam kết WTO - sẽ khiến nhiều doanh nghiệp dược phẩm “mất ăn mất ngủ” khi phải bắt đầu cuộc cạnh tranh không cân sức với “những người khổng lồ”. Trái lại, hầu hết các doanh nghiệp đều rất tự tin để bắt đầu cuộc chơi với một điều kiện: phải đảm bảo được tính công bằng!

Sẵn sàng vào sân chơi lớn

Mở cửa thị trường bán lẻ dược phẩm: Yêu cầu cạnh tranh công bằng, minh bạch ảnh 1

Cho đến nay, việc phân phối dược phẩm vẫn là sân chơi của doanh nghiệp trong nước. Ảnh: K.L.

Là thành viên của WTO từ năm 2007, Việt Nam cam kết thực hiện Hiệp định TRIPs (Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại) và TBT (Hiệp định về các rào cản trong thương mại) cho nhiều ngành, trong đó có dược phẩm.

Theo GS Lê Văn Truyền, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, chuyên gia cao cấp dược: Ngoài việc giảm thuế suất theo lộ trình; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo mật dữ liệu hồ sơ đăng ký thuốc, Việt Nam còn từng bước mở cửa thị trường dược phẩm, công nhận quyền thương mại của các doanh nghiệp nước ngoài.

Kể từ ngày 1-1-2009, công ty dược nước ngoài được quyền đứng tên trong hồ sơ nhập khẩu (không cần phải đầu tư trực tiếp tại Việt Nam). Đồng thời, cũng từ thời điểm này, các công ty dược nước ngoài đầu tư tại Việt Nam có tất cả các quyền về xuất – nhập khẩu như các doanh nghiệp dược Việt Nam. Tuy nhiên, quyền được nhập khẩu không có nghĩa là quyền được phân phối sản phẩm, đặc biệt là ở khu vực bán lẻ thuốc.

Như vậy, nỗi lo (nếu có) chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp nhập khẩu ủy thác – trước nay vốn được tung hoành thoải mái trên sân chơi được dành riêng cho doanh nghiệp nội thì nay sẽ phải vất vả hơn khi các đối tác của họ trước đây đã có thể tự thân vận động.

Tuy nhiên, dự đoán là vậy nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp này, đặc biệt là các “ông lớn” trong lĩnh vực nhập khẩu ủy thác như: Phytopharma, Vimedimex, Sapharco vẫn “bình chân như vại”.

Theo ông Phan Thành Lây, Tổng Giám đốc Phytopharma: Dược phẩm là thị trường đặc biệt vì vậy quy trình làm thủ tục nhập khẩu cũng không phải dễ dàng, thế mạnh của các doanh nghiệp trong nước là đã quen việc rồi, rành rẽ mọi thủ tục, đường đi nước bước, quen với các cảng, bến bãi… hơn nữa chi phí nhập khẩu ủy thác không quá cao, dịch vụ mình làm từ trước đến giờ lại đảm bảo chất lượng, kho bãi đạt chuẩn theo đúng quy định. Với tất cả những điều kiện trên, tôi nghĩ, các doanh nghiệp nước ngoài vẫn dành phần nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong nước.

Riêng về mảng phân phối, mặc dù cho đến nay theo cam kết, sân chơi này vẫn được dành riêng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp phân phối dược phẩm trong nước đã chuẩn bị sẵn tinh thần để đón đầu thách thức nếu sân chơi này cũng bị san sẻ cho các doanh nghiệp nước ngoài.

Ngoài việc xây dựng các chuẩn như GSP (Thực hành bảo quản thuốc tốt); GDP (Thực hành phân phối tốt), Công ty Coduphar vừa tiến hành mở rộng mạng lưới với các chi nhánh ở các tỉnh, TP: Cần Thơ, Đắc Lắc, Quảng Ngãi, Hải Phòng với mục đích mở rộng thị trường, phục vụ toàn dân thay vì chỉ phục vụ một nhóm đối tượng như mục tiêu của các công ty nước ngoài. Ông Hoàng Quốc Túy, Quản lý bộ phận Phát triển thị trường Công ty Coduphar, cho biết: Chúng tôi không sợ cạnh tranh, chỉ sợ cạnh tranh không đúng bản chất, không rõ ràng minh bạch.

Giá dược phẩm hậu WTO: Không giảm!

Chỉ 1 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, số công ty dược nước ngoài đăng ký hoạt động kinh doanh thuốc đã tăng vọt từ 270 công ty (năm 2005) lên 370 công ty (2007), số thuốc nước ngoài được cấp số đăng ký cũng đã tăng lên đến 8.459 thuốc (2007) chiếm gần 50% số dược phẩm đang lưu hành ở Việt Nam.

Mở cửa thị trường bán lẻ dược phẩm: Yêu cầu cạnh tranh công bằng, minh bạch ảnh 2
Sản xuất thuốc tại Công ty cổ phần Dược Pharmedic. Ảnh Mai Hải

Tuy nhiên, việc tự do hóa và mở cửa thị trường dược phẩm có mang lại lợi ích cuối cùng cho người dân là có thuốc chất lượng cao, giá cả chấp nhận được hay không đang là một câu hỏi lớn mà câu trả lời đang còn mơ hồ ở phía trước.

Một báo cáo mới đây nhất của GS Lê Văn Truyền cho thấy: Đối với thuốc nước ngoài nhập khẩu, mà đa số là các thuốc đặc trị độc quyền đang được bảo hộ chặt chẽ bởi Hiệp định TRIPs, mặc dù đã được tháo dỡ các rào cản thương mại. Nghĩa là chi phí kinh doanh giảm, nhưng chưa thấy giảm giá bán, mà trong đa số trường hợp giá cả liên tục tăng trong hai năm qua. Vastarel, Diamicron… những thuốc tim mạch thiết yếu chỉ trong vòng 1 tháng rưỡi từ tháng 9-2008 đã điều chỉnh giá hai lần với mức tăng tổng cộng 17%.

Nhiều mặt hàng trong các nhóm thuốc tim mạch, huyết áp, tiểu đường… người bệnh phải sử dụng thường xuyên và lâu dài cũng tăng liên tục. Cũng đã có hiện tượng hàng chục nhà cung cấp dược phẩm nước ngoài liên kết thông qua công ty phân phối ở Việt Nam để đồng loạt kiến nghị tăng giá thuốc.

Và gần đây nhất, một tin không mấy vui cho người bệnh Việt Nam là ít nhất có 3 “đại gia” dược phẩm đã đồng loạt thông báo tăng giá hàng chục biệt dược độc quyền về tim mạch, nhãn khoa và kháng sinh… lên ít nhất là 10%. Bên cạnh việc tăng giá thuốc thành phẩm, giá nguyên liệu dược bán vào Việt Nam cũng tăng chóng mặt làm giá thuốc trong nước tăng theo do nguyên liệu thường chiếm từ 30%-50% trong giá thành sản phẩm thuốc trong nước.

Thực tế thị trường dược phẩm đang đặt ra một câu hỏi khác là liệu việc mở cửa thị trường tự bản thân nó có đem lại lợi ích như là một hệ quả tất yếu hay không, đặc biệt là về giá cả và chất lượng dược phẩm? Đây còn là vấn đề khá nan giải và câu trả lời nằm ở cách quản lý của các cơ quan chức năng.

Kim Liên

Tin cùng chuyên mục