Nâng chất đào tạo sau đại học - Bài 2: Không được bỏ chất, theo lượng

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc đào tạo sau đại học (ĐH), nhất là đào tạo tiến sĩ (TS) hiện nay bất cập. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, trước hết là do chính các cơ sở đào tạo dễ dãi, chạy theo số lượng, bỏ qua chất lượng. 

Cùng với đó, trong quy chế đào tạo hiện nay của Bộ GD-ĐT có kẽ hở là bỏ qua yêu cầu công bố quốc tế với nghiên cứu sinh. Công bố quốc tế là chuẩn mực để hội nhập quốc tế của giáo dục ĐH. 

Kẽ hở lớn từ quy chế

Nhận định về quy chế đào tạo TS, GS-TS Ngô Việt Trung, nguyên Viện trưởng Viện Toán học, cho rằng: Quy chế đào tạo TS cũ (ban hành năm 2017) quy định luận án TS phải công bố 2 bài báo, trong đó có 1 bài đăng trên tạp chí thuộc danh mục ISI/Scopus (1 bài có thể đăng trong nước), hoặc 2 bài báo ở nước ngoài. So với tiêu chuẩn chức danh thì quy định này hoàn toàn hợp lý.

Tuy nhiên, nó vẫn còn kém các nước Đông Nam Á, như: ĐH Malaya (Malaysia) yêu cầu luận án các ngành khoa học tự nhiên phải có 2 bài ISI, các ngành khoa học xã hội có 1 bài ISI, hay ĐH Chulalongkorn (Thái Lan) yêu cầu luận án phải có 1 bài ISI... Tuy nhiên, quy chế đào tạo TS mới (Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT) hủy bỏ hoàn toàn yêu cầu công bố quốc tế của quy chế cũ.

Thậm chí, luận án chỉ cần có 3 công bố trên các tạp chí trong nước loại trung bình là được bảo vệ. Người hướng dẫn cũng không cần có công bố quốc tế, chỉ cần có 2 công bố trong nước loại trung bình trong 5 năm cuối, còn thấp hơn cả tiêu chuẩn 3 công bố của nghiên cứu sinh.

Quy trình duyệt bài của những tạp chí này thường dễ dãi và tùy tiện. Vì vậy, nghiên cứu sinh và thầy hướng dẫn dễ dàng tác động vào quá trình xét duyệt đăng bài, tạo kẽ hở cho việc ra đời các “TS rởm”. 

Nâng chất đào tạo sau đại học - Bài 2: Không được bỏ chất, theo lượng ảnh 1 Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM tổ chức lễ trao bằng tốt nghiệp cho thạc sĩ, tiến sĩ (tháng 4-2021)

Cũng theo GS-TS Ngô Việt Trung, trước năm 2017, chúng ta đã từng xôn xao về các lò TS rởm, những nơi có thể đào tạo hàng trăm TS mà hầu như không có công bố quốc tế nào. Chúng ta cũng bức bối vì có quá nhiều TS ở các cơ quan công quyền mà không biết họ có thật sự nghiên cứu để có bằng hay không. Quy chế cũ đã giúp dẹp bỏ những vấn nạn này, chính bởi vì tiêu chuẩn công bố quốc tế mà nghiên cứu sinh khó lòng “chạy” được.

Vậy thì tại sao Bộ GD-ĐT lại thay thế quy chế cũ bằng một quy chế không khác gì thời kỳ nhiều tiêu cực trước năm 2017? Phải chăng Bộ GD-ĐT muốn tăng số lượng TS bất kể chất lượng đào tạo thế nào nên mới hạ tiêu chuẩn công bố xuống thấp. Có thể khẳng định, yêu cầu luận án TS có công bố quốc tế là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để có TS thật.

Không có tiêu chuẩn công bố quốc tế thì những quy định đầu vào, dù có chặt chẽ đến đâu, cùng với các yêu cầu giải trình xã hội, liêm chính học thuật... cũng không thể ngăn cản được việc cho ra lò các TS rởm. Chỉ cần vài năm đào tạo TS theo quy chế mới thì xã hội sẽ lại “dậy sóng” khi nhìn đâu cũng thấy TS, thật - giả lẫn lộn.

Phải theo chuẩn mực quốc tế

Theo nhiều chuyên gia, khi xem xét đào tạo TS ở bất kỳ một ĐH nào tại các nước đang phát triển như Việt Nam, người ta thường chỉ hỏi một câu là luận án cần bao nhiêu công bố quốc tế thì được bảo vệ, vì công bố quốc tế chính là sự đánh giá khách quan nhất đối với chất lượng luận án khi trình độ khoa học của nước đó chưa cao, chưa tự thẩm định được chất lượng nghiên cứu. Vì vậy, các nước đang phát triển thường quy định luận án TS phải có công bố quốc tế trong những tạp chí quốc tế có sự đảm bảo về chất lượng.

Trên thế giới có 2 danh mục ISI và Scopus bao gồm các tạp chí khoa học được lựa chọn theo chất lượng của các công bố. Hội đồng Giáo sư Nhà nước cũng dùng 2 danh mục này để xét chọn chức danh. Ví dụ như phó giáo sư hay giáo sư cần có ít nhất 3 hay 5 bài báo trong 2 danh mục này. Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (Nafosted) cũng quy định các đề tài nghiên cứu phải công bố ít nhất 2 bài ISI trong 2 năm.

Theo GS-TS Ngô Việt Trung, ngoài những ngành công nghệ, kỹ thuật thì nhiều ngành lĩnh vực khoa học xã hội rất khó để công bố quốc tế. Tuy nhiên, thực tế như Trung Quốc, trong bảng xếp hạng các ĐH thế giới năm 2021 của Times Higher Education (chủ yếu dựa theo thành tích công bố quốc tế) thì ĐH Bắc Kinh đứng thứ 17 trong khoa học xã hội và thứ 28 trong khoa học nhân văn.

Chính vì vậy, không thể vì khó công bố quốc tế mà bỏ điều kiện này để dễ tuyển sinh, đào tạo. Nên giữ yêu cầu công bố quốc tế trong khoa học xã hội và nhân văn, nhưng có thể ở mức thấp hơn. Đối với một số ngành đặc thù chưa thể có công bố quốc tế thì Bộ GD-ĐT có thể chấp nhận luận án không có công bố quốc tế. 

“Ở các nước phát triển, người ta luôn đòi hỏi các TS đi xin việc nộp danh sách công bố quốc tế, hay các chứng chỉ phát minh sáng chế. Nếu đào tạo TS không đòi hỏi những chuẩn mực này thì lấy cái gì để đánh giá trình độ. Thế mới có chuyện có những người lấy bằng TS chỉ sau vài lần “đi chơi nước ngoài” tại những cơ sở đào tạo rởm mà vẫn được cơ quan của họ tin dùng, thậm chí lên chức sau khi có bằng TS mang mác nước ngoài”, GS-TS Ngô Việt Trung nhấn mạnh. 

Theo TS Lê Văn Út, Trưởng nhóm nghiên cứu trắc lượng thông tin, Trường ĐH Tôn Đức Thắng: Thời gian gần đây rộ lên thông tin những luận án TS hết sức buồn cười và xã hội bàn tán xôn xao. Trước khi phán xét người làm luận án thì phải xem lại trách nhiệm của cơ sở đào tạo, trách nhiệm và năng lực của người hướng dẫn và hội đồng đánh giá luận án.

Để tránh ra lò những kiểu luận án như vậy, mấu chốt là người hướng dẫn các luận án TS. Muốn nâng chất lượng các luận án TS, cách duy nhất là phải nâng cao chất lượng của người hướng dẫn. Quy trình dù cho có chặt chẽ đến đâu, nhưng người hướng dẫn có năng lực khiêm tốn thì các luận án TS mà họ hướng dẫn không thể khá hơn. 

Để sớm ngăn chặn số lượng TS kém chất lượng, TS Lê Văn Út kiến nghị: Việc cần làm ngay là cơ quan quản lý cần ban hành quy định chuẩn đầu ra, chuẩn mực đối với các luận án TS, chẳng những yêu cầu luận án phải có các công trình công bố trên các tạp chí ISI/Scopus mà phải là các tạp chí ISI/Scopus uy tín cao trong chuyên ngành.

Về quy trình quản lý và giám sát việc đào tạo TS thì Việt Nam có thủ tục phức tạp hơn nhiều nước trên thế giới, nhưng chất lượng các luận án vẫn còn hoài nghi là do lực lượng chuyên gia của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực thực sự chưa đủ mạnh. Do đó, rất cần thiết chế bằng các quy định về tiêu chuẩn các luận án TS từ các cơ quan quản lý nhà nước về đào tạo thì mới có thể lấy lại uy tín cho đào tạo TS của một số chuyên ngành.

* TS HOÀNG NGỌC VINH, thành viên tổ tư vấn Ủy ban Đổi mới giáo dục quốc gia giai đoạn 2016-2021:

Xây dựng sớm tiêu chuẩn khung đánh giá luận văn, luận án

Cơ quan quản lý nên xem xét điều chỉnh quy chế mà dư luận vừa qua không đồng tình, xây dựng sớm tiêu chuẩn khung đánh giá luận văn, luận án dựa vào Khung trình độ quốc gia Việt Nam, tiêu chuẩn việc làm của giáo viên hướng dẫn (nhiệm vụ, trách nhiệm, phẩm chất, trình độ năng lực, ngoại ngữ...).

Tránh ban hành tiêu chuẩn quá chi tiết, cơ sở sẽ mất đi quyền làm chủ của cơ sở đào tạo. Yêu cầu công khai tất cả luận văn, luận án lên website của cơ sở đào tạo (trừ luận án thuộc phạm vi bí mật quốc gia). Báo chí và truyền thông đại chúng cần vào cuộc cùng ngành giáo dục để đảm bảo sự trung thực, liêm chính học thuật.

Các cơ sở đào tạo cần ý thức rằng, việc xây dựng hình ảnh của tổ chức có khi mất vài chục năm với công sức của nhiều thế hệ, nhưng xóa bỏ uy tín, danh tiếng có khi chỉ trong chốc lát.

* GS-TS NGUYỄN XUÂN HÙNG, Viện trưởng Viện CIRTech, Trường ĐH Công nghệ TPHCM, Chủ tịch Hội Chuyên ngành Cơ học Việt Nam: 

Cần hội nhập trong nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế

Thủ tướng đã nêu cao tinh thần “Học thật, thi thật, nhân tài thật” thì không có lý do gì để trì hoãn hội nhập công bố quốc tế. Cả khoa học xã hội và khoa học tự nhiên cũng phải hội nhập trong nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế.

Các nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, con người, nghiên cứu về chủ quyền biển đảo… đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín, nơi có hàng triệu độc giả khắp thế giới truy cập, tham khảo và kế thừa nghiên cứu là bảo chứng khẳng định vị thế và tiếng nói từ Việt Nam. Do đó, công bố quốc tế là cách rất hiệu quả để hội nhập, để thế giới thêm tin tưởng và hợp tác với chúng ta.

Ngành Toán giữ lập trường hội nhập quốc tế từ rất lâu nên khi ra nước ngoài, tôi có nhiều dịp nghe họ nhắc đến Việt Nam với sự thán phục. Nếu các ngành khoa học khác cũng vươn lên với tinh thần ấy thì nghiên cứu khoa học của chúng ta sẽ ngày càng phát triển. 

Tin cùng chuyên mục