Nhà văn Đinh Phương: Mỗi tác phẩm đều có một số phận riêng

Nhà văn Đinh Phương (sinh năm 1989) hiện công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội, đã có nhiều dấu ấn nổi bật trong lĩnh vực văn chương. Anh từng đoạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2013 - 2014, giải tư Văn học tuổi 20 lần 6 của NXB Trẻ, giải thưởng Tác giả trẻ lần thứ nhất của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2021. Mới đây, anh quay lại văn đàn bằng tập truyện ngắn Thị trấn cá bông (Tao Đàn và NXB Phụ nữ Việt Nam).

Nhà văn Đinh Phương
Nhà văn Đinh Phương

PHÓNG VIÊN: Đang khẳng định mình và được ghi nhận qua thể loại tiểu thuyết với Nắng Thổ Tang, Nhụy khúc, Chuyến tàu nhật thực…, vì sao anh trở lại với thể loại truyện ngắn bằng Thị trấn cá bông?

Nhà văn ĐINH PHƯƠNG: Tôi đến với văn chương bắt đầu từ thơ, qua truyện ngắn, rồi đến tiểu thuyết. Thực lòng, tôi chẳng câu nệ truyện ngắn hay tiểu thuyết. Viết gì cũng được, miễn là bản thân mình thấy thích. Với tôi, truyện ngắn còn là bước chuẩn bị cho những ý tưởng manh nha của tiểu thuyết; như việc mình nhặt từng mảnh lego, nhìn ngắm xem chúng thế nào để sau có thể ghép lại thành mô hình lớn hơn.

Anh có cho rằng đó là một sự “quẩn quanh trong tổ”?

Thường thì ý tưởng từ truyện ngắn cũng không dùng được nhiều lắm cho tiểu thuyết, bởi các ý tưởng luôn biến đổi, chẳng có gì đứng yên cả. Chẳng hạn với Nhụy khúc, tôi có một truyện ngắn tên như vậy trong tập Những đứa con của chúa trời. Về sau viết tiểu thuyết, tôi lấy đúng cái tên Nhụy khúc, nhưng truyện ngắn và tiểu thuyết chẳng liên quan gì về nội dung. Chuyện quẩn quanh hay không tôi không rõ, tôi chỉ tin mỗi tác phẩm đều có số phận riêng của nó, chẳng cứ là tiểu thuyết hay truyện ngắn.

Nhắc đến cái tên Đinh Phương, dù là truyện ngắn hay tiểu thuyết thì một chỉ dấu để nhận diện chính là lịch sử.

Lịch sử có ý nghĩa như thế nào với anh?

Lịch sử kích thích tôi tìm hiểu và tưởng tượng, sống những cuộc đời mà đời thực không dám sống. Chẳng hạn như một người đang sống trong quãng 300 ngày của năm 1954 trước khi di cư từ Bắc vào Nam. Trong 300 ngày ấy người đó sẽ làm gì, những người xung quanh anh ta làm gì, không gian thay đổi ra sao... Rồi từ 300 ngày rút dần xuống còn 5 đến 7 ngày, tức là không thể nấn ná nữa, người đó buộc phải vào Nam hoặc ở lại Bắc, anh ta sẽ nghĩ gì, làm gì trong cái khoảng thời gian sít sao ấy, khi không gian bị nung nóng từng ngày với ánh mắt từ hai phía đi và ở… Chính những “khoảng hở” đó là không gian để người viết thỏa sức tưởng tượng, được sống với những cuộc đời khác mình.

Anh từng nói rằng: “Tôi mượn lịch sử, một vài nhân vật và sự kiện có thật để kể câu chuyện riêng của chính mình”. Trường hợp bắt buộc phải viết một tác phẩm thoát khỏi đề tài lịch sử, lúc đó, câu chuyện riêng của anh sẽ là gì?

Tôi nghĩ với tập truyện Thị trấn cá bông tôi đã thoát dần rồi đấy chứ. Thay vì lịch sử chính thống cùng các sự kiện có thật, tôi trở về với thứ lịch sử nhỏ của con người sống trong thị trấn, thứ lịch sử ký ức chẳng ai có thể kiểm chứng và theo dõi được. Các sự kiện bây giờ chỉ là các sự kiện bình thường của đời người mà ai cũng có, cũng từng một lần trải qua.

Trong truyện ngắn Lý lịch ký ức, dù nhắc đến Nguyễn Thái Học, đến Việt Nam Quốc dân Đảng nhưng thực chất là cuộc lần tìm một nhân vật mà ít người biết: bà Nguyễn Thị Cửu, vợ cũ của Nguyễn Thái Học. Hẳn là anh có lý do khi chọn điểm nhìn như vậy?

Tôi chọn điểm nhìn của cá nhân nhỏ bé khi viết để thấy họ gần gũi với bản thân mình. Vì gần gũi nên cũng dễ tung tẩy hơn, không bị khớp ở mạch suy nghĩ, ứng xử lẫn lời ăn tiếng nói. Còn chọn nhân vật cụ thể trong lịch sử, với nguồn tài liệu phong phú mình dễ bị sa vào tiểu sử của họ. Khi viết, mình chỉ như đang vùng vẫy trong cái khung có sẵn, như đi đường kẻ sẵn vạch, rất chán, lại áp lực. Người vô danh thì dễ viết bay bổng hơn.

Ở truyện ngắn Lý lịch ký ức, anh một lần nữa đưa bạn đọc về vùng đất Thổ Tang, không khỏi liên tưởng đến tiểu thuyết Nắng Thổ Tang, giúp anh nhận giải thưởng Tác giả trẻ lần thứ nhất của Hội Nhà văn Việt Nam. Xin hỏi, hai tác phẩm này có mối liên hệ như thế nào? Vì sao anh lại “nặng lòng” với vùng đất này như vậy?

Trong tiểu thuyết Nhụy khúc rồi trong truyện ngắn được giải của Tạp chí Văn nghệ quân đội, tôi cũng ngược về Thổ Tang (thị trấn Thổ Tang, tỉnh Phú Thọ). Tôi có cái lạ là khi thích vùng đất nào là tên vùng đất ấy cứ trở đi trở lại trong tâm trí, rồi đi vào tác phẩm. Thú thật rằng, Nắng Thổ Tang ra được hơn năm tôi mới có dịp về Thổ Tang một chuyến cùng mọi người trong ban biên tập Báo Văn nghệ. Hải Phòng cũng vậy, khi viết xong Nhụy khúc với rất nhiều cảnh di cư trên bến dưới thuyền tôi mới chính thức đặt chân sang bên đó, dù tỉnh Quảng Ninh và TP Hải Phòng giáp nhau. Còn trong Nam là An Giang, tôi đến đó một lần năm 2017, ở được chừng hơn tuần nhưng chẳng hiểu sao tôi mê cái vùng đất ấy lắm. Mua đủ thứ sách về địa chí, nghiên cứu An Giang về đọc, giống như đang đi du lịch trong tâm trí vậy!

Trong các truyện ngắn của Thị trấn cá bông, xuất hiện thường xuyên là hình ảnh núi Đông Triều, thị trấn, bụi than… và đặc biệt là những người trẻ rời bỏ quê hương “chấp nhận đi khỏi thị trấn là bị văng ra cả thể xác lẫn linh hồn”. Có hay không hình ảnh của Đinh Phương trong họ?

Tất nhiên, cũng có phần nào đấy suy nghĩ của tôi đặt trong các nhân vật người trẻ. Nhưng dù sao, tôi vẫn thấy mình may mắn còn một mảnh đất để trở đi trở lại sống chết với nó. Dù rằng, về là về thế thôi, ăn bữa cơm với bố mẹ, ngủ lại một đêm rồi sau lại tất tả lên phố sớm. Nhưng vẫn còn nơi trở về, vẫn còn người đợi mình ăn cơm là hạnh phúc rồi. Dù cho cảnh sắc, con người của thị trấn Mạo Khê giờ đã thay đổi nhiều, nhưng tôi vẫn nhìn ra góc nào còn dấu vết cũ, cả người quen cũ nữa, dù cho nếp nhăn, vết chân chim đã ăn hằn lên mắt họ nhiều.

Tin cùng chuyên mục