Những câu chuyện xúc động về nghĩa khí tiền nhân

Một thế kỷ tròn vừa trôi qua. Hào khí cuộc khởi nghĩa Duy Tân và anh linh của các bậc tiên liệt như Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Thành Tài vẫn còn đó…
Những câu chuyện xúc động về nghĩa khí tiền nhân

Một thế kỷ tròn vừa trôi qua. Hào khí cuộc khởi nghĩa Duy Tân và anh linh của các bậc tiên liệt như Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Thành Tài vẫn còn đó…

Tháng 5 nắng khô rốc người. Trên chuyến bay từ TPHCM đi Đà Nẵng, nhà thơ Phạm Sỹ Sáu nói rằng không hiểu sao máy bay lại vòng ra Huế, rồi anh nhìn xuống cửa sổ chỉ cho tôi và nhà văn Trần Văn Tuấn dòng sông Hương đang uốn khúc như con trăn khổng lồ bên dưới những đám mây màu cánh vạc. Máy bay vòng ngược ngang đèo Hải Vân, lướt qua bán đảo Sơn Trà, nghiêng cánh phía Cù lao Chàm, dăm phút sau đáp xuống sân bay quốc tế xứ sông Hàn.

TPHCM hanh nóng nhưng Đà Nẵng bất ngờ chuyển trời dịu mát. Gió biển hiu hiu như bài học quá khứ vừa đắng cay vừa thanh sạch. Nhìn sông Hương, sông Hàn và đèo Hải Vân, tôi chợt nhớ tròn 100 năm trước nơi đây từng xảy ra một sự kiện rúng động cả nước gắn liền với những bậc tiên liệt hy sinh vì đại nghĩa, mà nổi bật là hai thủ lĩnh Trần Cao Vân và Thái Phiên, nhưng các thế hệ sau này ít người biết tới dấu ấn lịch sử oanh liệt và bi thương này.

Tôi hỏi nhà thơ Phạm Sỹ Sáu hình như anh cùng quê với chí sĩ Thái Phiên. Anh bảo rằng làng Nghi An, xã Hòa Phát của cụ Thái Phiên và làng Xuân Thiều, xã Hòa Hiệp của anh trước đây cùng thuộc huyện Hòa Vang, nhưng bây giờ do tách nhập “nâng cấp” nên xã thành phường và khác quận. Làng cụ Thái Phiên nay thuộc quận Cẩm Lệ, còn làng anh thuộc quận Liên Chiểu của thành phố Đà Nẵng. Cả hai ngôi làng thuộc loại cổ và đẹp nhất xứ Quảng bây giờ đổi thay rất nhiều, sự phát triển nhanh chóng đã bê tông hóa làm mai một cảnh quan cũ.

Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu còn cho hay, ngoài việc Đà Nẵng từng mang bí danh thành Thái Phiên thời 9 năm chống Pháp, tại thành phố này còn có một con đường và ngôi trường trung học phổ thông từ lâu mang tên Thái Phiên. Hồi còn học trung học Trường Phan Châu Trinh ở Đà Nẵng trước năm 1975, anh Phạm Sỹ Sáu đã đi làm báo và hay qua Trường Thái Phiên để lấy tin tức. Tại làng Nghi An cũng có đền thờ anh hùng Thái Phiên và dòng tộc Thái, trong đó có nữ chí sĩ yêu nước Thái Thị Bôi gọi Thái Phiên bằng chú ruột và cùng hoạt động trong phong trào Duy Tân cứu nước đầu thế kỷ XX.

Dâng hương trước tượng chí sĩ Thái Phiên ở ngôi trường mang tên ông tại Đà Nẵng nhân kỷ niệm 100 năm cuộc khởi nghĩa Duy Tân

Chí sĩ Thái Phiên sinh năm Nhâm Ngọ 1882, biệt hiệu Nam Xương, học rộng tài cao, làm thông ngôn cho Pháp nhưng nuôi ý chí đánh đuổi giặc ngoại xâm. Sau khi hai chí sĩ Tiểu La, Nguyễn Thành hy sinh ở Côn Đảo và Đỗ Đăng Tuyển bị địch bắt, chí sĩ Thái Phiên đã được lãnh tụ Phan Bội Châu chọn làm lãnh đạo Trung kỳ của Việt Nam Quang phục Hội, tổ chức chính trị kế thừa Duy Tân Hội, để mưu cầu sự nghiệp cứu nước.

Mãn hạn tù Côn Đảo vì liên quan cuộc khởi nghĩa chống Pháp của danh sư Võ Trứ ở Phú Yên, chí sĩ Trần Cao Vân đã trở về xứ Quảng hợp cùng Thái Phiên dự mưu tiếp tục khởi nghĩa. Bên cạnh hai ông là những bậc sĩ phu yêu nước có uy tín của Trung kỳ chung vai hợp lực, như Phan Thành Tài, Lê Ngung, Lâm Nhĩ, Châu Thượng Văn, Lê Đình Dương, Nguyễn Công Phương, Mai Dị, Phạm Hữu Khánh, Phạm Cao Chẩm, Nguyễn Thụy, Nguyễn Chính, Nguyễn Hữu Đồng, Phạm Cao, Đỗ Tự, Ông Văn Long, Lê Văn Bính…

Tổng chỉ huy Thái Phiên và quân sư Trần Cao Vân cùng ban lãnh đạo nòng cốt đã ra sức vận động tập hợp lực lượng, thu phục binh lính Nam triều, trù tính kế hoạch. Hai ông ra kinh thành Huế bí mật trực tiếp gặp thuyết phục vua Duy Tân xuống chiếu chỉ để “hợp thức hóa” cuộc khởi nghĩa nhằm hiệu triệu sĩ phu và đồng bào khắp ba miền. Vị hoàng đế nhỏ tuổi yêu nước cũng đồng ý xuất cung rời kinh thành Huế cùng với hai ông Thái - Trần để lãnh đạo khởi nghĩa.

Dù chuẩn bị công phu, nhưng do sơ hở về mặt tổ chức, tin tức lọt ra ngoài, đồng thời kẻ thù vẫn còn sức mạnh áp đảo, cuộc khởi nghĩa dưới ngọn cờ vua Duy Tân ở Huế và Trung kỳ đã sớm bị thất bại ngay khi khởi xướng vào đêm mùng 3-5-1916. Hai chí sĩ Thái Phiên, Trần Cao Vân và vua Duy Tân cùng một số thủ lĩnh khởi nghĩa bị địch bắt. Ở trong ngục thất, Trần Cao Vân viết thư cho đại thần Hồ Đắc Trung nhận lãnh hết trách nhiệm về mình và Thái Phiên. Hai chí sĩ dũng cảm chấp nhận án tử hai tuần sau đó ở pháp trường Cống Chém, An Hòa của kinh thành Huế cùng với hai thị vệ của vua Duy Tân là Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu vào ngày 17-5-1916. Nhờ nghĩa khí của Thái Phiên và Trần Cao Vân mà vị vua trẻ Duy Tân được nhẹ tội và chịu lưu đày sang đảo Réunion trên Ấn Độ Dương, nơi vua cha Thành Thái yêu nước cũng bị thực dân Pháp bắt đưa đi an trí.

Tại Quảng Nam, thủ lĩnh Lê Đình Dương bị bắt đưa vào giam ở Khánh Hòa, sau đó bị đày lên nhà lao Ban Mê Thuột và hy sinh. Hai thủ lĩnh khác của cuộc khởi nghĩa ở Quảng Nam là Phan Thành Tài và Lương Thái Hòa trốn thoát lên miền núi được đồng bào thiểu số che chở. Biết được vai trò quan trọng của Phan Thành Tài, quân Pháp truy lùng mãi không được bèn quay về bao vây làng Bảo An quê hương ông và đe dọa sẽ giết sạch người, xóa tên làng nếu vị thủ lĩnh không chịu về nạp mình. Nhân sĩ làng Bảo An đã họp lại cử một đoàn lên rừng gặp chí sĩ Phan Thành Tài. Ông khẳng khái nói với mọi người: “Tây nó dọa đấy thôi, nhưng nếu chúng có làm thật đốt làng, giết dân, tội ác tày trời đó sẽ bị sử sách lên án, thế giới nguyền rủa. Tôi thà bỏ xác nơi đây chứ không về Bảo An để bị bắt”.

Quân Pháp tiếp tục bao vây gây nguy khốn làng Bảo An. Dân làng buộc phải tiếp tục cử người lên núi gặp Phan Thành Tài. Lúc này, ông bị hôn mê vì sốt rét nặng, người làng võng ông xuống ghe, bị quân Pháp đón bắt ở Bến Đường, giam ở nhà lao Vĩnh Điện. Sau khi ông tỉnh lại, quân Pháp cố dụ hàng không được, đã đưa vị thủ lĩnh can trường ra hành quyết tại một cồn hoang vào ngày 9-6-1916. Phan Thành Tài ngã xuống lúc mới 38 tuổi, còn Thái Phiên 34 tuổi, lớn nhất là Trần Cao Vân cũng mới 50 tuổi.

Lúc chí sĩ Phan Thành Tài bị bắt giam, vợ ông là bà Bùi Thị Hậu đang mang thai người con út mới 5 tháng. Ở trong lao ông viết hai bài thơ thể hiện ý chí bất khuất của mình, trong đó có một bài gửi cho con, mà người đời sau tạm đặt tên Đóa tự do:

“Con còn bụng mẹ, cha đã mất,

Con bé vào đời nước đã suy.

Thù nhà, nhục nước con phải biết

Chẳng đội trời chung chữ ấy ghi.

Cha muốn gầy ra đóa tự do,

Máu đem làm nước, xác làm tro,

Vun cho hoa nở, hoa chưa nở,

Con hãy vì cha, thế mặt lo”.

Tượng chí sĩ Phan Thành Tài ở ngôi trường mang tên ông

Chí sĩ yêu nước Phan Thành Tài được chôn cất bên bờ sông đào Vĩnh Điện, ngôi mộ ông nay đã thành di tích lịch sử của tỉnh Quảng Nam. Cùng với Trần Cao Vân và Thái Phiên, hiện nay tại thành phố Đà Nẵng cũng có một con đường và ngôi trường mang tên Phan Thành Tài.

Chí sĩ Trần Cao Vân

Xung quanh cuộc khởi nghĩa dưới ngọn cờ vua Duy Tân còn có nhiều câu chuyện nghĩa khí và cảm động. Sau khi Thái Phiên và Trần Cao Vân bị địch xử chém, chôn ở bãi đất gần pháp trường Cống Chém, ngày đêm có lính canh gác vì sợ bị trộm thi hài và ngăn người đến viếng. Một thành viên Việt Nam Quang phục Hội dưới trướng hai ông là bà Trương Thị Dương quê Quảng Trị tìm mọi cách trộm thi hài. Hơn 9 năm sau, bà mới thực hiện được tâm nguyện. Vào tháng 6-1925, bà đã hối lộ lính canh và mướn người bí mật đưa hài cốt hai ông về bờ Nam sông Hương để tẩn liệm vào hai tiểu sành, cúng vái và chôn cất tử tế gần chùa Châu Lâm. Thế nhưng mới 11 ngày sau sự việc bị lộ, bà lại tiếp tục cho dời mộ lên bãi tha ma trên đồi thông nằm giữa chùa Châu Lâm và chùa Từ Hiếu ở Huế, chôn hai tiểu sành chung một nấm mộ để đánh lạc hướng địch truy tìm. Thi thoảng từ quê nhà Quảng Trị bà vào viếng mộ. Mãi đến năm 1956, một năm trước khi qua đời, bà mới tiết lộ bí mật cho con cháu, dựng lên tấm bia nhỏ định danh vị công khai cho hai ông Thái - Trần. Ngày nay chỗ yên nghỉ của hai lãnh tụ khởi nghĩa đã được mở rộng khang trang, trở thành di tích lịch sử quốc gia ở Huế.

Một thế kỷ tròn vừa trôi qua. Hào khí cuộc khởi nghĩa Duy Tân và anh linh của các bậc tiên liệt vẫn còn đó, khí tiết và nghĩa tình. Những ngày ở giữa thành Thái Phiên xưa, đi qua những con đường và đến thăm các ngôi trường mang tên các vị anh hùng, giao lưu với thầy cô giáo Trường Đại học Duy Tân “ôn cố tri tân”, chúng tôi như được sống lại trong không khí hào hùng của cuộc vận động cứu nước 100 năm trước. Cảm phục tinh thần xả thân, nghĩa khí của các chí sĩ Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thành Tài… hay vua Duy Tân, chúng tôi cũng thật ngưỡng mộ bà Trương Thị Dương, một người yêu nước và sống trọn vẹn tình nghĩa thủy chung với đồng chí, đồng đội của mình. Nghĩa cử của bà tôn thêm hình ảnh đẹp phụ nữ Việt Nam.

PHAN HOÀNG

Tin cùng chuyên mục