Theo Viện Năng lượng Việt Nam, trong giai đoạn 2016-2030, nguồn nhiệt điện than vẫn sẽ tăng trưởng cao, khoảng 21,6%/năm. Đây là mức tăng trưởng mạnh nhất trong các loại hình nguồn điện truyền thống. Theo Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 3-2016, tới năm 2030, nhiệt điện than sẽ chiếm tỷ trọng 53,2% điện sản xuất. Nhiệt điện than có vai trò quan trọng trong đảm bảo cung ứng điện cho phát triển kinh tế, xã hội. Đây là nguồn điện có thời gian và chi phí đầu tư hợp lý, đảm bảo phụ tải nền cho biểu đồ phụ tải tiêu thụ điện quốc gia và đặc biệt phù hợp với mô hình phát triển kinh tế của các quốc gia đang phát triển. Để giảm tỷ lệ nhiệt điện than không hề đơn giản vì rất khó tìm nguồn thay thế; đặc biệt khi các dự án thủy điện vừa và lớn đã khai thác gần hết, nguồn khí tự nhiên cũng đã khai thác đến giới hạn và triển vọng nhập khí hóa lỏng sẽ diễn ra sau năm 2025.
PGS-TS Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật nhiệt Việt Nam, cho rằng vấn đề là phải xử lý được các nhược điểm của loại hình nhiệt điện than. Để giảm thiểu tác động đến môi trường, các nhà máy nhiệt điện than cần phải sử dụng biện pháp khử các chất độc hại trước khi thải ra môi trường. Ngoài ra, theo các chỉ số đánh giá tác động môi trường (ĐTM) đã được phê duyệt, phương pháp xử lý chất thải phải áp dụng công nghệ hiện đại, có mức đầu tư lớn. Nếu chỉ số đánh giá tác động môi trường được thực hiện nghiêm túc, việc xử lý chất thải độc hại tại các nhà máy nhiệt điện than sẽ không tác động đến môi trường. Tuy nhiên, các nhà máy nhiệt điện vẫn cần phải tổ chức quan trắc thường xuyên để đánh giá kết quả xử lý. Hơn nữa, do số lượng chất thải lớn nên hệ thống quan trắc cần được ghi chép tự động và nối mạng với hệ thống quan trắc chung.
Thứ trưởng Bộ Công thương Hoàng Quốc Vượng cho biết, trong quá trình vận hành nhà máy nhiệt điện than cũng phát sinh một số vấn đề về môi trường cần được xử lý. Chúng ta cần nâng cao công nghệ các nhà máy, tăng hiệu suất vận hành, xử lý hiệu quả các chất thải, làm tốt công tác môi trường. Đặc biệt, cần sớm có cơ chế, chính sách để biến chất thải của nhà máy nhiệt điện thành nguồn lực, nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất trong một số ngành công nghiệp, thực hiện tăng trưởng xanh. Để có thể tái sử dụng toàn bộ tro xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện than, Bộ Công thương kiến nghị Bộ Xây dựng chỉ đạo nghiên cứu, ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật với tro xỉ than của nhà máy nhiệt điện để sản xuất vật liệu xây dựng và sử dụng tro xỉ để gia cố, san nền móng các công trình dân dụng và hạ tầng kỹ thuật như đường giao thông. Tuy nhiên, Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng cũng đề nghị, giai đoạn đầu Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất về vốn, công nghệ, đất đai và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hiện khó khăn lớn nhất trong việc tạo đầu ra cho sản phẩm tro xỉ là thói quen sử dụng của khách hàng. Một khi chưa có đầu ra ổn định thì tro xỉ than từ nhà máy nhiệt điện vẫn chưa được xử lý triệt để. Nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường, các nhà máy nhiệt điện nên sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại cho các dự án mới. Đồng thời cải tiến, nâng cấp các dự án đang vận hành, đầu tư thiết bị bảo vệ môi trường.
PGS-TS Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật nhiệt Việt Nam, cho rằng vấn đề là phải xử lý được các nhược điểm của loại hình nhiệt điện than. Để giảm thiểu tác động đến môi trường, các nhà máy nhiệt điện than cần phải sử dụng biện pháp khử các chất độc hại trước khi thải ra môi trường. Ngoài ra, theo các chỉ số đánh giá tác động môi trường (ĐTM) đã được phê duyệt, phương pháp xử lý chất thải phải áp dụng công nghệ hiện đại, có mức đầu tư lớn. Nếu chỉ số đánh giá tác động môi trường được thực hiện nghiêm túc, việc xử lý chất thải độc hại tại các nhà máy nhiệt điện than sẽ không tác động đến môi trường. Tuy nhiên, các nhà máy nhiệt điện vẫn cần phải tổ chức quan trắc thường xuyên để đánh giá kết quả xử lý. Hơn nữa, do số lượng chất thải lớn nên hệ thống quan trắc cần được ghi chép tự động và nối mạng với hệ thống quan trắc chung.
Thứ trưởng Bộ Công thương Hoàng Quốc Vượng cho biết, trong quá trình vận hành nhà máy nhiệt điện than cũng phát sinh một số vấn đề về môi trường cần được xử lý. Chúng ta cần nâng cao công nghệ các nhà máy, tăng hiệu suất vận hành, xử lý hiệu quả các chất thải, làm tốt công tác môi trường. Đặc biệt, cần sớm có cơ chế, chính sách để biến chất thải của nhà máy nhiệt điện thành nguồn lực, nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất trong một số ngành công nghiệp, thực hiện tăng trưởng xanh. Để có thể tái sử dụng toàn bộ tro xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện than, Bộ Công thương kiến nghị Bộ Xây dựng chỉ đạo nghiên cứu, ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật với tro xỉ than của nhà máy nhiệt điện để sản xuất vật liệu xây dựng và sử dụng tro xỉ để gia cố, san nền móng các công trình dân dụng và hạ tầng kỹ thuật như đường giao thông. Tuy nhiên, Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng cũng đề nghị, giai đoạn đầu Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất về vốn, công nghệ, đất đai và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hiện khó khăn lớn nhất trong việc tạo đầu ra cho sản phẩm tro xỉ là thói quen sử dụng của khách hàng. Một khi chưa có đầu ra ổn định thì tro xỉ than từ nhà máy nhiệt điện vẫn chưa được xử lý triệt để. Nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường, các nhà máy nhiệt điện nên sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại cho các dự án mới. Đồng thời cải tiến, nâng cấp các dự án đang vận hành, đầu tư thiết bị bảo vệ môi trường.