Thượng tướng Trần Sâm: Cuộc trường chinh hơn 70 năm không mỏi

TIN BUỒN
Thượng tướng Trần Sâm: Cuộc trường chinh hơn 70 năm không mỏi

20 giờ 30 phút ngày 14 tháng 8 năm 2009, Đại tá Hồ Thủy - Giám đốc Bảo hiểm Quân đội điện cho tôi: “Anh Triều ơi, bác Trần Sâm đã mất rồi! Mặc dù tôi biết mấy năm gần đây hầu như ông chỉ nằm ở viện nhưng khi nhận được tin này tôi không khỏi bàng hoàng, thương tiếc ông.

  • Một kỷ niệm khó quên

Tôi được biết ông vào đầu năm 2006, khi đó Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu - Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật - là con rể của Thượng tướng Trần Sâm đến đặt vấn đề mời tôi chắp bút cho ông cuốn hồi ký để lại cho con cháu mai sau.

Tôi nhận lời và bay vào thành phố Hồ Chí Minh. Lúc này, Thượng tướng Trần Sâm đang nằm điều trị ở khoa cán bộ cao cấp, Bệnh viện 175. Chị Trần Thanh Hà, con gái của ông, đưa tôi đến và giới thiệu về tôi với ông. Nghe xong, ông bảo: “Mời đồng chí ngồi”. Tôi hỏi thăm tình hình sức khỏe của ông rồi đặt vấn đề muốn viết về cuộc đời ông theo lời mời của anh Nguyễn Mạnh Đẩu. Ông bảo: “Thực tình, tôi không có ý định viết hồi ký. Tôi nghĩ lịch sử dân tộc ta từ khi có Đảng đã là thiên hồi ký vĩ đại nhất, sâu sắc nhất và chân thật nhất. Cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thắng lợi là nhờ sự hy sinh của hàng triệu đồng bào, chiến sĩ, trong đó có phần nhỏ bé của gia đình tôi. Nhưng nếu các con muốn tôi có cuốn sách về những kỷ niệm năm tháng cuộc đời để lại cho con cháu đọc cho vui thì tôi đồng ý vậy”.

Tôi nghe giọng Quảng Trị đã pha nhiều giọng Bắc, sang sảng, ấm vang, truyền cảm của Thượng tướng Trần Sâm. Ông đã thuyết phục tôi. Cuộc nói chuyện trở nên sôi nổi. Thế là đều đặn một tuần, sáng 8 giờ tôi đến nói chuyện với ông, độ khoảng 10 giờ thì nghỉ. Chiều 2 giờ tôi lại đến nghe ông kể về cuộc đời mình.

Năm 2007, tính tuổi ta thì Thượng tướng Trần Sâm đã tròn 90 và gần 70 năm tuổi Đảng. Trừ 6 năm trên điều ông ra làm Bộ trưởng Bộ Vật tư (từ năm 1976 đến năm 1982), thì ông có gần 50 năm trong quân ngũ.

Thượng tướng Trần Sâm nghỉ hưu năm 1996. Tuy tuổi cao, sức yếu nhưng ông vẫn nhớ như in những ngày đầu tham gia cách mạng, đó là vào cuối năm 1938, ông làm công nhân ở ga xe lửa Tháp Chàm. Sáu tháng sau ông được kết nạp vào Đảng (tháng 6 năm 1939). Bị địch bắt, sống cuộc sống tù đày trong nhà lao đế quốc ở Buôn Ma Thuột. Ông cùng các đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Hoàng Anh... vẫn kiên trung giữ vững khí tiết trước những trận tra tấn dã man của kẻ thù. Nhớ khí thế của quần chúng kéo về cướp chính quyền ở thị xã Quảng Trị trong những ngày Cách mạng Tháng Tám.

Nhớ những ngày chiến đấu trên chiến trường Bình - Trị - Thiên trong đạn bom khói lửa được sự che chở, đùm bọc của nhân dân. Ông đã chứng kiến sự hy sinh của biết bao đồng bào, đồng chí, đồng đội, trong đó có ba người em ruột của mình. Những sự hy sinh cao cả đó mãi mãi không thể nào phai nhòa trong ký ức ông.

Đồng chí Trần Sâm (thứ 2 từ trái sang) cùng các tướng lĩnh quân đội tại Học viện Quân sự Liên Xô (năm 1961).

Đồng chí Trần Sâm (thứ 2 từ trái sang) cùng các tướng lĩnh quân đội tại Học viện Quân sự Liên Xô (năm 1961).

  • Dồn tâm huyết, trí tuệ phụng sự Tổ quốc, nhân dân

Thượng tướng Trần Sâm hào hứng kể về những tháng năm ở chiến khu Việt Bắc - Thủ đô Gió Ngàn. Thời đó ông được giao làm Cục trưởng Cục Quân lực, nhiều lần được gặp Bác Hồ, nghe Bác chỉ bảo, căn dặn. Những lời của Bác mãi mãi khắc ghi trong tâm khảm ông.

Một trong những kỷ niệm mà Tướng Trần Sâm nhắc tới với tất cả sự trân trọng là cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi chiến dịch Điện Biên Phủ, được ở bên Đại tướng tại sở chỉ huy Mường Phăng - nơi đấu trí với quân xâm lược Pháp suốt 56 ngày đêm.

Những ngày chống Mỹ cứu nước gian khổ, Tướng Trần Sâm được cùng các đồng chí trong phái đoàn Chính phủ Việt Nam đi các nước, nói cho chính phủ và nhân dân, bạn bè quốc tế hiểu rõ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, tranh thủ sự viện trợ của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô, Trung Quốc, đem về vũ khí và trang bị hiện đại lúc đó - một nhân tố quan trọng để cùng con người Việt Nam, ý chí Việt Nam tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ đối với miền Bắc và cuộc chiến tranh cục bộ do Mỹ tiến hành ở miền Nam.

Công tác ở Tổng hành dinh nhiều năm, Tướng Trần Sâm cũng là một trong những người tham mưu cho Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh tổ chức lực lượng chi viện cho chiến trường miền Nam, chiến trường Lào và bảo đảm lực lượng bảo vệ miền Bắc. Khi thời cơ xuất hiện, ông đề xuất Bộ Tổng tư lệnh và Đảng ủy Quân sự Trung ương xây dựng các binh đoàn chủ lực mạnh, tạo những quả đấm quyết định giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc chiến tranh.

50 năm trong quân ngũ, Thượng tướng Trần Sâm đã từng trải qua nhiều cương vị, trong đó có 30 năm giữ cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm nhiều nhiệm vụ khác. Dù ở đâu, làm công việc gì ông cũng mang hết tâm huyết và trí tuệ phục vụ quân đội, phục vụ nhân dân

Đại tá LÊ HẢI TRIỀU



Tiểu sử đồng chí Thượng tướng Trần Sâm

Đồng chí Thượng tướng Trần Sâm (tên khai sinh: Trần Hầu; bí danh: Trần Bá, Đinh Vu), sinh ngày 5 tháng 4 năm 1918; quê quán xã Hải Xuân, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Trú quán số 26 Trường Sơn, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở hiện nay: số 47/11 đường Quốc Hương, phường Thảo Điền, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh.

Danh sách Ban Lễ tang đồng chí Thượng tướng Trần Sâm gồm 25 đồng chí, do Đại tướng Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm trưởng ban.

Thi hài đồng chí Thượng tướng Trần Sâm quàn tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng phía Nam, số 5 Phạm Ngũ Lão, phường 3, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Lễ viếng bắt đầu từ 7 giờ, ngày 20 tháng 8 năm 2009; lễ truy điệu hồi 14 giờ 30 cùng ngày, sau đó là lễ đưa tang và lễ an táng đồng chí Thượng tướng Trần Sâm tại Nghĩa trang thành phố Hồ Chí Minh. 

Năm 1938, đồng chí tham gia cách mạng, làm giao thông giữa Trung và Nam bộ; tháng 3-1939, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam); tháng 11-1939, đồng chí bị địch bắt, kết án tù 5 năm đày đi Buôn Mê Thuột. Tháng 11-1943, đồng chí ra tù, bắt liên lạc tiếp tục hoạt động cách mạng; sau đó tham gia khởi nghĩa giành chính quyền; tháng 9-1945, đồng chí là Ủy viên Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Trị.

Tháng 3-1946, đồng chí là Chính trị viên Trung đoàn Quảng Trị, tháng 3-1947, kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Quảng Trị. Tháng 9-1948 là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 101, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị.

Từ tháng 1-1950 đến tháng 5-1957, đồng chí giữ các chức vụ: Phân khu phó Phân khu Bình Trị Thiên, Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 4-Thường vụ Khu ủy, Cục trưởng Cục Quân lực-Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam, Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần, Cục trưởng Cục Nghiên cứu kỹ thuật.

Tháng 3-1961, đồng chí giữ chức Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam.

Tháng 8-1963 đến tháng 3-1975 đồng chí giữ chức vụ: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Tổng Tham mưu trưởng, kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần-Bí thư Đảng ủy Tổng cục Hậu cần, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, kiêm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật. Tháng 8-1976, đồng chí được Đảng, Nhà nước bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Vật tư-Bí thư Đảng đoàn Bộ Vật tư. Tháng 12-1976, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương khóa IV. Đồng chí là Đại biểu Quốc hội các khóa: III, V, VII.

Tháng 6-1982 đến tháng 3-1986 đồng chí giữ các chức vụ: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Xây dựng kinh tế.

Đồng chí được phong quân hàm Thiếu tướng (tháng 8-1959), Trung tướng (tháng 4-1974), Thượng tướng (tháng 1-1986). Đồng chí nghỉ hưu tháng 11-1992.

Do có nhiều công lao, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước, quân đội, đồng chí được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Tin cùng chuyên mục