Ra đi từ người lính
Văn Lê (ảnh) tên thật là Lê Chí Thụy sinh ngày 2-3-1949 tại xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Ông nhập ngũ năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Năm 1967, ông cùng đồng đội vượt Trường Sơn vào đánh giặc tại chiến trường Nam bộ. |
Với năng khiếu văn chương, Văn Lê từng được điều về Cục Chính trị Miền (Quân giải phóng miền Nam) làm thư viện. Đến năm 1974, ông sang công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng cùng các nhà văn, nhà thơ tên tuổi mặc áo lính như: Nam Hà, Triệu Bôn, Thanh Giang, Võ Trần Nhã, Trần Ninh Hồ, Lê Văn Vọng... Sau 30-4-1975, Văn Lê xuất ngũ, công tác tại Báo Văn nghệ giải phóng rồi Tuần báo Văn nghệ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam.
Mãi khắc họa chân dung người lính
Văn Lê không chỉ thành danh, nổi tiếng trên “cánh đồng chữ nghĩa” mà ông còn thành công, bội thu trên lĩnh vực điện ảnh. Nếu trên diễn đàn văn chương, ông là tác giả của hàng chục đầu sách, trong đó có 3 tập thơ, 2 trường ca, 5 tập truyện và 12 tiểu thuyết thì trong lĩnh vực điện ảnh, Văn Lê là tác giả kịch bản, đạo diễn nhiều tác phẩm được Hội Điện ảnh trao giải thưởng lớn như: Kịch bản phim tài liệu xuất sắc, Đạo diễn xuất sắc, 1 giải Bông sen vàng, 5 giải Bông sen bạc, 2 giải Cánh diều vàng; 1 giải Galaxy của truyền hình Nhật Bản...
Như thể Văn Lê sinh ra để viết tiểu thuyết. 12 tiểu thuyết đã trình làng của ông thực sự đều như những bức tranh toàn cảnh về một giai đoạn lịch sử của đất nước, cả chính sử và huyền sử. Mỗi khi nói về cảm hứng sáng tạo, Văn Lê như người lên đồng. Ông yêu, ghét, khóc, cười cùng nhân vật. Trước khi tiểu thuyết Người Chim và Phượng Hoàng ra đời, Văn Lê chia sẻ với tôi về lộ trình xây dựng nhân vật. Đôi khi cao hứng ông “chửi bới” các nhân vật phản diện, cứ như thể chúng hiện hữu trước mặt và là nguyên nhân gây ra hệ lụy cho dân tộc, cho đồng bào của mình. Chỉ riêng năm 1989, khi bộ đội tình nguyện Việt Nam rút khỏi Campuchia, Văn Lê cùng lúc cho ra đời 3 tiểu thuyết: Hai người còn lại trong rừng, Tình yêu cả cuộc đời và Khi tòa chưa tuyên án.
Trong số những người cầm viết cùng thời, hình như Văn Lê đứng đầu bảng về nhận giải thưởng, đặc biệt giải thưởng viết về người lính bộ đội Cụ Hồ và chiến tranh cách mạng. Các tiểu thuyết: Nếu anh còn được sống (1994), Mùa hè giá buốt (2004); Phượng Hoàng (2009)... được giải thưởng của Bộ Quốc phòng và giải quốc tế Văn học Mê Kông, đều xoay quanh cái trục chiến tranh và thân phận người lính. Đọc Văn Lê, người ta như được sống lại một thời chiến tranh gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng của dân tộc, đó không chỉ là phác thảo bức tranh mà chính ở tính cách nhân vật.
Thơ vẫn là sự chưng cất cảm xúc
“Nếu được chọn 1 trong 3 (thơ, văn xuôi và điện ảnh) tớ vẫn chọn thơ...”, Văn Lê đã chia sẻ với tôi như thế. Đó là cuối năm 2013, khi tôi mang tập bản thảo trường ca đầu tiên Phía sau mặt trời nhờ ông viết lời tựa. Sau một ngày một đêm, Văn Lê gọi điện cho tôi đến lấy bài. “Cho dù thơ rất khó, ngày càng khó, nhưng tớ vẫn yêu thơ, làm thơ. Chỉ khi ta thực sự xúc động mới có thể cho ra đời những câu thơ cứa vào hồn vía người đọc. Vì thế, ta có thể nói dối người này, người khác, điều này, điều khác nhưng không thể nói dối thơ. Thơ là sự chân thành, lương thiện nhất”, ông chia sẻ với tôi như thế.
Trái tim người lính Cụ Hồ, nhà thơ, nhà văn, nhà điện ảnh tài hoa và nhân hậu ấy đã đột ngột ngừng đập lúc 20 giờ 45 phút ngày 6-9-2020. Nghe tin ông về cõi vĩnh hằng, tôi cùng đồng đội chạy đến tiễn biệt ông. Trong ngôi nhà giản dị tại đường Văn Chung, phường 13, quận Tân Bình, TPHCM, ông nằm đó như vừa chợp mắt. Dẫu biết đó là quy luật muôn đời mà trái tim tôi vẫn rung lên nhịp lạ. Khóe mắt cay và đôi môi cắn chặt.