Tối nay 13-4, tại khu di tích Đền Hùng - Phú Thọ, lễ đón nhận bằng vinh danh “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” do UNESCO trao tặng sẽ diễn ra như một lần nữa khẳng định tính kết nối và lan tỏa của một di sản văn hóa thuần Việt.
Biểu tượng của sự đoàn kết
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không chỉ có ở Việt Nam mà còn có ở nhiều nước khác như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc… Tại Việt Nam, nếu trong gia tộc, người Việt thờ cúng tổ tiên thì ở quốc gia người Việt thờ cúng Hùng Vương. Bao đời nay, Hùng Vương là vị vua gắn với Nhà nước Văn Lang huyền thoại thành vị Thủy tổ của dân tộc. Các vương triều, các làng xã thờ cúng Hùng Vương như một Thánh vương thiêng liêng. Theo GS Ngô Đức Thịnh, có thể nói, từ một niềm tin tín ngưỡng, tục thờ cúng tổ tiên của người Việt đã trở thành đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt, thể hiện tinh thần tôn trọng quá khứ, biết ơn quá khứ.
Trước đây, một số người nhầm lẫn bó hẹp cách nghĩ rằng tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương chỉ gắn với khu di tích đền Hùng (Phú Thọ). Song nói nôm na, có thể tạm cắt nghĩa rằng tín ngưỡng Hùng Vương là phong tục thờ các vua Hùng như Quốc tổ của dân tộc Việt Nam. Cội rễ của tín ngưỡng này là tục thờ cúng tổ tiên, vì người Việt coi dân tộc mình như một gia đình lớn, có cha mẹ (tháng Tám giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ), có ông tổ là các vua Hùng. Và vua Hùng, biểu tượng Quốc tổ, chính là sự chắt lọc, kết tinh và thăng hoa theo thời gian của tâm thức về nguồn cội, tâm thức gắn kết cộng đồng mà dân tộc ta luôn mang theo. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một trường hợp rất độc đáo trong văn hóa thế giới.
Theo PGS Bùi Quang Thanh, điểm độc đáo ở đây là việc Quốc tổ Hùng Vương được nhân dân Việt Nam tôn vinh, nhưng lại không chiếm thế độc tôn tại bất kỳ sinh hoạt tín ngưỡng nào. Sử sách có ghi lại rằng tục thờ cúng Hùng Vương đã phát triển rất mạnh từ thế kỷ 12 - trước khi chính thức được vinh danh vào thời vua Lê Thánh Tông (1470). Từ thời điểm đó, việc tham gia tôn vinh Quốc tổ của dân tộc Việt được duy trì khá đều đặn trong toàn cộng đồng và liên tục phát triển mở rộng theo tiến trình lịch sử.
Điều thú vị, không chỉ “mở cửa” cho cộng đồng tham gia tôn vinh các triều đại Hùng Vương, các triều đại phong kiến cũ đều rất chú trọng tìm mọi cách để “khuyến khích” người dân duy trì tín ngưỡng này. Thậm chí, tại nhiều nơi, các vua Hùng còn được “bình dân hóa”, với việc bài vị của ngài được người dân đưa về nhà, phối thờ tại bàn thờ dòng họ.
Tại các địa phương khu vực miền Trung và miền Nam Việt Nam, hàng loạt đền thờ vua Hùng cũng được xây dựng và phát triển theo thời gian với tổng cộng 1.417 đền thờ. Như nhận xét của nhiều chuyên gia, gần như người Việt Nam lập làng tại đâu thì xây đền thờ Tổ Hùng ở đó và họ thờ cúng hàng năm để bày tỏ tấm lòng tri ân, kính hiếu. Thậm chí, các Việt kiều sống ở nước ngoài khi có dịp cũng “thỉnh” chân hương tại đất Tổ mang về cắm trên bàn thờ của gia đình. Vì thế mà ngay ở California (Mỹ), người Việt ở đây cũng đã lập đền thờ Hùng Vương.
Tiếp tục phát huy sức mạnh kết nối và lan tỏa
Theo GS Nguyễn Chí Bền, Viện trưởng Viện nghiên cứu văn hóa, từ khi bắt tay vào những công việc cụ thể của việc xây dựng bộ Hồ sơ quốc gia đệ trình UNESCO vinh danh cho tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, các chuyên gia mới nhận ra một thực trạng là từ thời nhà Nguyễn, trọng tâm của nghi thức thờ cúng đã dồn hết về núi Nghĩa Lĩnh với 3 ngôi đền Hạ, Trung và Thượng thông qua việc đầu tư cơ sở vật chất. Việc thờ cúng ở các làng xung quanh đó đã không được chú trọng. Trong số di tích thờ cúng Hùng Vương ở tỉnh Phú Thọ đã có tới 20% công trình đã hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng.
Chính điều này đã dẫn đến việc rất nhiều tục lệ thờ cúng vua Hùng rất có ý nghĩa bị bỏ qua, lãng quên chẳng hạn như ở làng He, có tục sau khi tiễn ông Táo về trời vào 23 tháng Chạp thì ngày 24 là lễ rước vua Hùng về ăn tết, mùng 8 tháng Giêng có lễ tiễn công chúa đi lấy chồng. Thế nhưng những tập tục này hầu như bị bỏ qua mà chỉ tập trung vào nghi thức thờ cúng ở đền Hùng. Cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác, GS Nguyễn Chí Bền cho rằng nên khôi phục lại những tục lệ đó ở 120 làng ở Phú Thọ cũng như trên cả nước.
Cũng theo GS Nguyễn Chí Bền, cùng với việc được vinh danh, yêu cầu về việc bảo tồn với di sản cũng đòi hỏi gay gắt và nghiêm cẩn hơn trước. Đơn cử như việc gìn giữ các nghi thức thờ cúng Hùng Vương có những bí quyết như bí quyết chọn hạt gạo nếp thế nào để gói bánh chưng cho ngon, làm thế nào giã bánh dày cho dẻo, ngày một lớn tuổi, dần dần mất đi. Việc ghi chép lại, văn bản hóa những tập tục, nghi lễ thờ cúng để trao truyền cho các thế hệ kế tiếp đang gặp nhiều khó khăn.
Một khó khăn khác nữa là việc giáo dục tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương rất khó đưa vào trường học, chúng ta không thể bắt buộc thế hệ trẻ phải học, bởi vì đã có Pháp lệnh Tôn giáo và tín ngưỡng, trong đó quy định người dân hoàn toàn được tự do tín ngưỡng. Hơn nữa, bản chất của tín ngưỡng là câu chuyện của niềm tin, xúc cảm, không thể giải thích bằng khoa học lý tính. Song dù có khó nhưng GS Nguyễn Chí Bền cũng như những người đồng sự đều tin rằng với sức sống hàng ngàn năm của một truyền thống tốt đẹp, với dòng máu Lạc Hồng chảy trong huyết quản mỗi người dân Việt Nam, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương sẽ mãi trường tồn và lan tỏa.
VĨNH XUÂN