Bệnh Whitmore - nguy hiểm, dễ lây nhiễm khi tiếp xúc

Sau những ngày lũ lụt kéo dài tại miền Trung, số người bị mắc bệnh Whitmore (hay còn gọi là bệnh Melioidosis) đang gia tăng với hàng chục ca bệnh, trong đó đã ghi nhận một số ca tử vong. 

Theo các chuyên gia y tế, Whitmore là bệnh ít gặp, không dễ lây lan thành dịch nhưng bệnh rất dễ mắc, nguy hiểm nhất với những người mắc bệnh mãn tính nên nguy cơ tử vong không hề thấp. Hơn nữa, bệnh không chỉ xuất hiện tại miền Trung sau mưa lũ mà còn được ghi nhận tại nhiều địa phương khác.

PGS-TS Đỗ Duy Cường thăm khám cho người bệnh mắc bệnh Whitmore

Vi khuẩn gây bệnh trong tự nhiên

Theo Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), bệnh Whitmore là một bệnh nhiễm trùng ở người và động vật do vi khuẩn Burkholderia Pseudomallei gây ra. Đáng lưu ý, vi khuẩn B. pseudomallei tồn tại tự nhiên trong đất, có thể gây ô nhiễm nguồn nước và lây truyền chủ yếu qua da khi có vết thương hở tiếp xúc trực tiếp với đất, bùn, nước bị nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, hiện chưa có bằng chứng về việc lây truyền vi khuẩn B. pseudomallei từ người sang người hoặc từ động vật sang người. Vì thế, Whitmore là bệnh ít gặp, không lây lan thành dịch. 

TS-BS Lê Bửu Châu, Trưởng Khoa Nhiễm B, Bệnh viện (BV) Bệnh nhiệt đới TPHCM cho biết, bệnh được nhà nghiên cứu bệnh học người Anh tên Alfred Whitmore mô tả đầu tiên vào năm 1911 khi nghiên cứu một trường hợp bệnh ở Rangoon (Myanmar). Biểu hiện của bệnh rất đa dạng, từ nhiễm trùng không triệu chứng đến các thể nặng như viêm phổi kèm nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn, áp xe ở nhiều cơ quan trong đó có da. Do vùng da loét bị hoại tử nhiều nên hiện nay bệnh được gọi là “bệnh ăn thịt người” - cách gọi này là chưa chính xác và dễ gây hoang mang cho người dân.

Tại Việt Nam, bệnh Whitmore được biết từ rất lâu, trường hợp đầu tiên được báo cáo vào năm 1925 từ Viện Pasteur Sài Gòn (nay là Viện Pasteur TPHCM) ở một thai phụ 24 tuổi sống tại Thủ Đức. Sau đó, nhiều trường hợp bệnh được ghi nhận ở cả những người lính Pháp và lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Những nghiên cứu trong thời gian gần đây ở nước ta cho thấy, bệnh hiện diện ở nhiều tỉnh thành phía Bắc và phía Nam. Bệnh gặp ở nam nhiều hơn nữ, người lớn nhiều hơn trẻ em, mùa mưa nhiều hơn các mùa khác. 

Thống kê của BV Bệnh nhiệt đới TPHCM, số người mắc bệnh Whitmore hàng năm tương đối ít, khoảng 20 trường hợp. Đa số các bệnh nhân đến từ TPHCM và các khu vực lân cận như Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Long An... Tại một số cơ sở y tế khác như BV Bạch Mai, BV đa khoa tỉnh Hòa Bình thời gian qua cũng tiếp nhận khá nhiều trường hợp bệnh Whitmore và số ca mắc đang có chiều hướng gia tăng. Thống kê của Trung tâm Bệnh nhiệt đới, BV Bạch Mai, nếu như trước đây, 5-10 năm mới có 20 ca mắc Whitmore thì từ đầu năm 2020 đến nay, trung tâm đã điều trị cho khoảng 30 bệnh nhân Whitmore. Riêng từ đầu tháng 11 đến nay, đã có 6 bệnh nhân từ các tỉnh Sơn La, Nghệ An và Hà Tĩnh. PGS-TS Đỗ Duy Cường, Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới cho biết, các bệnh nhân đều trên 50 tuổi và có tiền sử bị đái tháo đường, sưng đau khớp gối, nhiễm trùng nặng, có bệnh nhân bị áp xe phổi.

Do có biểu hiện lâm sàng đa dạng nên Whitmore rất dễ chẩn đoán nhầm sang bệnh khác khiến việc điều trị gặp khó. “Để xác định bệnh cần dựa trên các xét nghiệm phân lập và định danh vi khuẩn trong các mẫu bệnh phẩm máu, mủ, đờm, nước tiểu, hoặc dịch não tủy. Điều trị lâu dài bằng kháng sinh đặc hiệu Ceftazidime hoặc Carbapenem đường tĩnh mạch, thời gian tấn công 2-4 tuần, sau đó sang giai đoạn duy trì bằng Biseptol kéo dài 3-6 tháng”, PGS-TS Đỗ Duy Cường cho biết.

Chưa có vaccine phòng bệnh

Qua một số nghiên cứu của Bộ Y tế cho thấy, tại nước ta, khoảng 70% ca bệnh Whitmore nhập viện trong thời gian từ tháng 9 đến tháng 11. Số bệnh nhân tăng tỷ lệ thuận với lượng mưa. Đa số bệnh nhân là nông dân, tuổi từ 50 đến 70, trong đó nhiều người mắc có bệnh nền đái tháo đường hoặc bệnh mãn tính liên quan đến phổi và thận, có biểu hiện nhiễm khuẩn huyết và viêm phổi. Bệnh Whitmore cũng bắt gặp ở tất cả các độ tuổi, cả ở nam và nữ, thường gặp ở người có nghề nghiệp tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với đất, nước.

Đáng lưu ý, hiện nay thế giới vẫn chưa có vaccine phòng bệnh Whitmore dù đã có những loại kháng sinh điều trị đặc hiệu. Các biện pháp phòng bệnh chủ yếu là đảm bảo vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, sử dụng bảo hộ lao động khi làm việc có tiếp xúc với đất, bùn, nước bị nhiễm khuẩn hoặc trong môi trường không đảm bảo vệ sinh, diệt khuẩn vết rách da, trầy xước hoặc bỏng và thực hiện ăn chín uống sôi.

Bệnh Whitmore - nguy hiểm, dễ lây nhiễm khi tiếp xúc ảnh 2 Một bệnh nhân mắc bệnh Whitmore bị vi khuẩn gây nhiễm trùng

Để chủ động phòng bệnh Whitmore, Cục Y tế dự phòng khuyến cáo người dân cần thực hiện nghiêm túc các biện pháp: hạn chế tiếp xúc với đất hoặc nước, bùn, đặc biệt là nơi bị ô nhiễm nặng; sử dụng giày, dép và găng tay đối với những người thường xuyên làm việc ngoài trời, tiếp xúc với đất và nước bẩn; khi có vết thương hở, vết loét hoặc vết bỏng cần tránh tiếp xúc với đất, nước bị ô nhiễm. Nếu bắt buộc phải tiếp xúc thì sử dụng băng chống thấm và cần được rửa sạch, đảm bảo vệ sinh. Những người có bệnh mãn tính như tiểu đường, suy giảm miễm dịch cần được chăm sóc, bảo vệ các tổn thương để ngăn ngừa nhiễm khuẩn. Khi nghi ngờ nhiễm bệnh cần đến cơ sở y tế để được tư vấn, khám, xét nghiệm xác định nhiễm vi khuẩn B. pseudomallei và điều trị kịp thời.

Cục Y tế dự phòng vừa có công văn gửi Sở Y tế các tỉnh, thành phố yêu cầu tăng cường giám sát chặt chẽ tình hình bệnh Whitmore, phát hiện sớm các trường hợp mắc mới, lấy mẫu xét nghiệm các trường hợp nghi ngờ và các đối tượng nguy cơ cao để phát hiện sớm các trường hợp mắc và xử lý điều trị trên địa bàn tỉnh, thành phố, đặc biệt là các vùng nguy cơ cao đã có bệnh nhân mắc bệnh. Tổ chức thu dung, cấp cứu bệnh nhân, điều trị tích cực để hạn chế các trường hợp tử vong do Whitmore. Chỉ đạo các đơn vị y tế tổ chức điều tra, phân tích dịch tễ các trường hợp mắc bệnh, nguy cơ và các biện pháp phòng chống.

Người mắc bệnh Whitmore có biểu hiện lâm sàng rất đa dạng như: sốt, sốt kèm lạnh run, sốt kéo dài, suy hô hấp, loét da, viêm đường tiết niệu, viêm phổi, áp xe ở gan, lách, nhiễm trùng huyết… Do vậy, bệnh khó chẩn đoán và tỷ lệ tử vong cao, có thể tới 40% do biến chứng viêm phổi nặng, nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng. Nguy hiểm hơn, đối với người có bệnh nền (đái tháo đường, bệnh gan, thận, phổi mãn tính, suy giảm miễn dịch) có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. 

Tin cùng chuyên mục