Đào tạo nữ hộ sinh người dân tộc thiểu số

Cách hữu hiệu để chăm sóc sức khỏe đồng bào

Cách hữu hiệu để chăm sóc sức khỏe đồng bào

Từ những cô gái người dân tộc thiểu số ở vùng cao có trình độ học vấn từ cấp tiểu học đến trung học phổ thông, Bệnh viện Từ Dũ đã đào tạo họ trở thành những nữ hộ sinh (NHS) có chuyên môn về phục vụ đồng bào dân tộc mình. Nhờ những NHS người dân tộc cần mẫn này, nhiều gia đình đồng bào dân tộc ít người nay đã bỏ được những tập quán lạc hậu, thai phụ không còn phải đối diện với nhiều nguy cơ như trước, sinh con khỏe mạnh.

  • Vào rừng sinh con, dùng dao cắt rốn
Cách hữu hiệu để chăm sóc sức khỏe đồng bào ảnh 1

NHS Y Thủy (bìa trái, dân tộc Xê Đăng) cùng các NHS dân tộc Gia Rai, K Dong chăm sóc rốn cho trẻ sau sinh.

Cả thôn Plei Groi xã Chư Hreng (tỉnh Kon Tum) chỉ có trên 70 hộ dân, nhưng có đến gần 300 nhân khẩu, đa số là dân tộc Ba Na. Trạm y tế cách thôn đến 2 giờ đồng hồ đi xe gắn máy mà lại thiếu NHS. Mỗi lần sinh con, các thai phụ thường tìm đến 4 bà mụ vườn trong thôn và không ít người đã trở thành nạn nhân của những bà mụ vườn tay ngang này. Chị Y Xa, trong lần sinh con thứ sáu, bị đau bụng dữ dội nhiều giờ liền vẫn chưa thể sinh. Vậy mà bà mụ vườn giữ chị từ 6 giờ chiều đền 2 giờ sáng hôm sau, cuối cùng chị bị băng huyết, vỡ tử cung, cả ba mẹ con (thai song sinh) đều chết.

Tại thị trấn Đakglei (huyện Đakglei tỉnh Kon Tum), trạm y tế rất gần thôn Xốp Dùi – chỉ khoảng 300m, nhưng bà con vẫn còn tập quán… vào rừng sinh con. Chị Y O (dân tộc Dẻ) nói: “Ở nhà sanh con không ra”. Lúc đau bụng, chị tự đi vào rừng rồi sanh con, lấy mảnh nứa hoặc con dao đi rừng cắt rốn, dùng quần áo cũ quấn cháu bé lại. NHS Y Hồng (Trạm y tế xã Xốp đang học chuyên môn tại BV Từ Dũ) kể: nhiều lúc đi vào rừng, thấy cháu bé mới sinh ra rất tội nghiệp: dây rốn còn để dài lòng thòng gần 20cm, quần áo quấn tèm lem, ruồi bu xung quanh, nguy cơ nhiễm trùng rất lớn. Đến nay, ở nhiều thôn vẫn tồn tại những tập quán lạc hậu: cha đỡ sanh cho con, chồng đỡ sanh cho vợ, khi vợ đau bụng sanh - chồng leo lên cây cao rồi tuột xuống để vợ mau sanh hơn, vợ đau bụng sanh - chồng bước qua lại ngang bụng vợ… Tình trạng đó khiến nhiều gia đình sanh 7 - 8 con, nhưng chỉ nuôi được phân nửa.

Không chỉ có tỉnh Kom Tum, qua nhiều năm khảo sát của BV Từ Dũ ở các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận và Bình Phước, ở vùng sâu vùng xa, người dân tộc ít người vẫn sống theo các tập quán lạc hậu, không đi khám thai, không đến sanh tại trạm y tế. Tỷ lệ tai biến và tử vong ở mẹ và con đều rất cao.

  • NHS buôn làng, người thay đổi tập tục cũ

Theo bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng - GĐ BV Từ Dũ, năm 1995, 37 NHS người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lâm Đồng và Bình Thuận từ chỗ chưa biết gì về chăm sóc sức khỏe sinh sản được BV Từ Dũ đào tạo, đã trưởng thành và góp phần xây dựng, phát triển hiệu quả mạng lưới y tế cơ sở của hai tỉnh trên. Các NHS được trang bị kiến thức, kỹ năng vận động bà mẹ mang thai đến sanh tại trạm y tế. Nếu sản phụ không kịp đi sanh hoặc không muốn sanh tại trạm thì các NHS giúp đỡ đẻ an toàn tại nhà.

Qua nhiều đợt kiểm tra định kỳ 51 NHS người dân tộc ít người do BV Từ Dũ đào tạo về làm việc tại huyện Bù Đăng tỉnh Bình Phước, đã có trên 14.000 thai phụ được khám thai định kỳ, trên 2.600 trường hợp được đỡ sanh. Đặc biệt, trên 600 thai phụ có biểu hiện bất thường (chuyển dạ kéo dài, tiền căn băng huyết sau sanh, chuyển dạ sanh non, thai quá ngày) được các NHS chẩn đoán và chuyển lên tuyến trên đúng chỉ định. Trên 80% thai phụ có dấu hiệu tai biến được chuyển viện đúng, không có ca uốn ván trẻ sơ sinh nào ở những nơi các NHS này về làm.

Đây là thành quả to lớn của chương trình đào tạo NHS người dân tộc thiểu số phục vụ cho đồng bào ở các tỉnh vùng sâu vùng xa. Sau khóa đào tạo về địa phương làm việc, các NHS còn được tặng đồng phục nhân viên y tế, nồi luộc tiệt trùng, đồng hồ theo dõi mạch, cân trẻ em, bộ máy đo huyết áp, xe đạp, các NHS xuất sắc được thưởng xe gắn máy. Từ năm 1995 đến nay, tổng kinh phí hỗ trợ cho các NHS người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Bình Phước, Kom Tum… do BV Từ Dũ đào tạo hết trên 1,3 tỷ đồng.

Theo bà Hà Thị Khiết - Chủ tịch TƯ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, trình độ dân trí của người dân sẽ được nâng cao thông qua các em NHS này khi sử dụng chính ngôn ngữ của dân tộc mình để tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc tốt sức khỏe cho đồng bào tại các thôn bản, xây dựng nếp sống mới trong cộng đồng. Đây là chiến lược ưu tiên xây dựng và phát triển mạng lưới chăm sóc sức khỏe cho đồng bào vùng núi, vùng dân tộc thiểu số của Đảng và nhà nước ta. Từ năm 2005 đến 2006, TƯ Hội Liên hiệp Phụ nữ VN phối hợp với BV Từ Dũ đào tạo thêm 500 NHS dân tộc thiểu số cho các tỉnh Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Chính những NHS này sẽ góp phần đáng kể trong việc xây dựng mạng lưới y tế hộ sinh cộng đồng gắn với hệ thống hội phụ nữ cơ sở.

NGỌC TRƯỚC

Tin cùng chuyên mục