Đề án khai thác bể than đồng bằng sông Hồng : Khai thác thử nghiệm vào năm 2010

Đề án khai thác bể than đồng bằng sông Hồng : Khai thác thử nghiệm vào năm 2010

Trước những quan điểm khác nhau về đề án khai thác bể than có trữ lượng tới 210 tỷ tấn ở đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), trong đó có những quan điểm tỏ ra lo ngại việc khai thác than sẽ làm sụt lún xảy ra diện rộng, cạn kiệt nước ngầm, ô nhiễm môi trường… PV Báo SGGP đã có cuộc trao đổi với TS Nguyễn Thành Sơn (ảnh), Giám đốc Công ty Năng lượng Sông Hồng (thuộc TKV), đơn vị chủ trì việc thực hiện đề án trên, để làm rõ những điều mà dư luận đang nghi ngại.

- Thưa ông, TKV đang đẩy nhanh quá trình thăm dò và khai thác thử nghiệm bể than ĐBSH vào năm 2010?

TS Nguyễn Thành Sơn

TS Nguyễn Thành Sơn

TS NGUYỄN THÀNH SƠN: Đề án khai thác bể than ĐBSH đã được HĐQT của TKV thông qua và trình Thủ tướng. Thủ tướng đã giao cho Bộ Công thương thành lập hội đồng thẩm định nhà nước để nghiên cứu, đánh giá về đề án. Cho đến nay, hội đồng thẩm định của Bộ Công thương đã họp nhiều lần, nhiều vấn đề đã đặt ra, với không ít những lo ngại từ các chuyên gia, nhà khoa học. Tuy nhiên, trong vòng từ nay cho tới cuối năm 2009, thẩm định cuối cùng của Bộ Công thương sẽ được trình lên Thủ tướng Chính phủ.

Trong đề án của có tất cả 11 dự án. Trong đó, chúng tôi xây dựng 4 dự án khai thác thử nghiệm, gồm 2 dự án thử nghiệm khai thác hầm lò truyền thống như ở vùng mỏ Quảng Ninh và 2 dự án khai thác theo công nghệ mới: khí hóa than ngầm trong lòng đất. Sở dĩ mỗi hình thức phải thực hiện 2 dự án vì mỏ than ở ĐBSH nằm ở độ sâu lớn, cách mặt đất từ 200m đến hơn 2.000m, nên chúng tôi muốn thử nghiệm khai thác ở cả tầng nông (từ 600m trở lên) và tầng sâu (dưới 600m). Mục đích là để đánh giá xem có làm lún sụt mặt đất, ảnh hưởng tới tầng nước ngầm hay không? Trước mắt là dự án nông, nếu không đạt, ảnh hưởng tới nguồn nước ngầm, làm lún sụt đất thì sẽ thực hiện dự án sâu.

- Nếu được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì việc khai thác sẽ xúc tiến như thế nào?

Chúng tôi chủ trương phân vùng, chia lô các mỏ để tiến hành liên doanh, hợp tác với các đối tác nước ngoài. Trong đó, hoạt động hợp tác sẽ bắt đầu từ khâu thăm dò cho tới thiết kế, xây dựng và cả vận hành, khai thác. Điều đáng mừng là chúng ta đã thuyết phục được các đối tác hợp tác ngay từ quá trình thăm dò. Họ cũng sẽ chịu rủi ro với chúng ta ngay từ đầu. Cả hai bên sẽ cùng bỏ tiền đầu tư và cả chịu rủi ro (nếu có) theo tỷ lệ: nước ngoài là 40%, Việt Nam là 60% (dự án khí hóa than ngầm) và tương tự là nước ngoài 49%, Việt Nam là 51% (dự án khai thác hầm lò).

- Hiện nay đã có những đối tác nào, thưa ông?

Đối với dự án thử nghiệm khí hóa than ngầm, chúng tôi đã ký hợp đồng với 2 đối tác nước ngoài (cùng đứng một bên) là Marubeli (Nhật Bản) và Line Energy (Australia). Tổng vốn của cả 2 bên khoảng 6,5 triệu USD. Dự án thứ 2 là liên doanh với Tập đoàn BBV (Mỹ) để khai thác hầm lò sâu tại khu vực Khoái Châu 2 (Hưng Yên). Dự án thứ 3 là liên doanh với Tập đoàn CMC của Trung Quốc để khai thác một dự án hầm lò nông. Dự án thứ 4 thì mới chỉ dừng ở bước đàm phán giữa chúng tôi và Tập đoàn Copex (Ba Lan) để khai thác khí hóa than ở tầng sâu, địa điểm hiện chúng tôi chưa xác định được, nhưng có thể sẽ đặt tại tỉnh Thái Bình.

Tuy nhiên, riêng dự án khai thác thử nghiệm ở vùng Khoái Châu (Hưng Yên) - liên doanh giữa TKV và 2 tập đoàn của Nhật Bản và Australia thì có thể sẽ được triển khai sớm nhất trong năm 2010. Do trữ lượng khai thác chỉ có khoảng 1.800 tấn than nên không cần phải tổ chức thăm dò, chúng tôi dùng ngay kết quả thăm dò đã được phê duyệt từ những năm 1983 - 1984. Phương pháp khai thác sẽ là khí hóa than ở tầng nông.

- Vậy những lo ngại như sụt lún đất trên diện rộng, suy kiệt nước ngầm thì làm sao để khắc phục?

Có nhiều cách để chống sụt lún khi khai thác như sẽ chọn nơi khai thác nằm ở độ sâu tối ưu dưới 200m, khai thác theo hướng, trình tự vỉa than. Mục tiêu là phải bảo vệ được tầng đệ tứ ở phía trên cùng (có chiều sâu khoảng 150 - 200m so với mặt đất). Sụt lún có thể xảy ra nhưng chúng tôi sẽ tính toán để việc sụt lún không chạm vào tầng đệ tứ (cũng là nơi chứa nhiều nước ngầm). Và giải pháp chắc chắn nhất là chúng tôi sẽ bơm cát xuống các vùng “lõm” để chống lún sụt. Đây là phương pháp chèn lò, thế giới đã làm nhiều và rất thành công.

Còn về nước ngầm, chúng tôi khẳng định là không ảnh hưởng. Vì nước ngầm nằm chủ yếu ở tầng đệ tứ bên trên. Tầng than bên dưới có rất ít nước. Trong quá trình khai thác than, chúng tôi sẽ tìm cách ngăn không cho nước ở tầng trên sụt xuống tầng dưới vì nghề mỏ rất “kỵ” nước.

- Trong trường hợp không thể khai thác ở tầng nông mà phải khai thác tầng sâu thì liệu có đảm bảo hiệu quả kinh tế không?

Theo tính toán của chúng tôi, trong trường hợp khai thác ở độ sâu tới 900 - 1.200m thì giá thành than (chưa tính giá bán) khoảng từ 65 - 75 USD/tấn thì so với giá than phải nhập về vẫn có thể cạnh tranh được. Tuy nhiên, cụ thể thì phải sau bước khai thác thử nghiệm mới quyết định được.

- Nếu khai thác theo phương pháp khí hóa thì khí sẽ sử dụng như thế nào thưa ông?

Khí hóa có đặc điểm là phải sử dụng tại chỗ, sử dụng đường ống thì xa lắm cũng chỉ 50 - 60km. Vấn đề là phải khai thác lên để xem khí đó ra sao, nồng độ, nhiệt năng thế nào… Nếu đảm bảo đủ tiêu chuẩn thì có thể biến thành dầu diesel (bằng công nghệ hóa lỏng khí thành dầu). Đối tác đang hợp tác với chúng tôi để khai thác thử nghiệm ở mỏ Khoái Châu đã làm rất thành công công nghệ này ở Australia. Trong trường hợp không thể khí hóa dầu được thì sẽ dùng để phát điện. Nếu cứ tính trung bình là mỗi năm khai thác được 15 triệu tấn than thì ở đây có thể phát triển được các dự án điện tiêu thụ than, kể cả trường hợp than khí hóa thì cũng dùng để sản xuất điện được. 15 triệu tấn than/năm sẽ tương đương tối thiểu là 3.000MW điện (gấp đôi thủy điện Hòa Bình hiện nay). Do đó, chúng tôi sẽ đề xuất xây dựng các nhà máy nhiệt điện ở vùng Thái Bình, Hưng Yên.

- Cảm ơn ông!

Phúc Hậu

Tin cùng chuyên mục