Đồng chí Nguyễn Văn Linh – Nhà lãnh đạo kiệt xuất phong trào cách mạng đô thị, người gắn bó máu thịt với Đảng bộ và nhân dân Sài Gòn - TPHCM

Trải qua gần 70 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã hiện diện ở nhiều địa phương khắp mọi miền của đất nước, trải qua nhiều vị trí lãnh đạo khác nhau, để lại những kỷ niệm sâu sắc trong lòng đồng chí, đồng bào. Đảng và Nhà nước ta, nhiều đồng chí lãnh đạo, nhà khoa học, trí thức, văn nghệ sĩ, bạn bè, đồng chí đã có nhiều bài viết, nhiều tác phẩm nói về cuộc đời hoạt động, những đóng góp to lớn của đồng chí Nguyễn Văn Linh đối với Đảng, với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Sự nghiệp cách mạng trải dài gần 70 năm, từ khi còn là một học sinh trung học tham gia cách mạng đến khi trở thành người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam đã để lại những dấu ấn lịch sử không thể mờ phai, một tấm gương sáng về phẩm chất và uy tín lớn của người cộng sản “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, trong đó ở Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố lớn nhất nước ta, dấu ấn ấy luôn sâu sắc, tấm gương ấy mãi mãi ngời sáng.

Như chúng ta đã biết, cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Linh vô cùng phong phú, diễn ra ở nhiều nơi, nhưng có thể nói phần lớn gắn với phong trào cách mạng đô thị, trong đó Sài Gòn – Gia Định là đô thị lớn nhất, nơi đồng chí hoạt động trong nhiều thời gian nhất.

Hơn nửa cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Văn Linh gắn bó máu thịt với Nam bộ trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong đó Sài Gòn – Gia Định là chiến trường trọng điểm, được đồng chí trực tiếp chỉ đạo thường xuyên. Đồng chí Nguyễn Văn Linh là một trong những người có công đầu khởi xướng, kiến tạo đường lối đổi mới, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là một thực tiễn phong phú để hình thành và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.

Tất cả những điều trên đây trở thành bối cảnh và điều kiện lịch sử khách quan tạo nên sự gắn bó mật thiết của đồng chí Nguyễn Văn Linh với phong trào cách mạng đô thị Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh qua nhiều thời kỳ với những công lao to lớn, những dấu ấn lịch sử, những kinh nghiệm, bài học quí báu.

1/ Đồng chí Nguyễn Văn Linh là người đứng đầu Đảng bộ Thành phố, giữ chức Bí thư Thành ủy nhiều lần nhất

Sinh ra ở miền quê đồng bằng sông Hồng, song cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Linh chủ yếu là ở đô thị như Hải Phòng, Hà Nội; đặc biệt trong nhiều năm đã gắn bó máu thịt với phong trào cách mạng, với tổ chức Đảng, đồng bào đồng chí của Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong suốt 80 năm xây dựng và phát triển, Đảng bộ Sài Gòn – Gia Định – Thành phố Hồ Chí Minh đã có 36 lượt đồng chí làm bí thư Thành ủy (Khu ủy, đặc khu ủy), trong đó đồng chí Nguyễn Văn Linh đã 8 lần làm Bí thư. Năm 1939, đồng chí Nguyễn Văn Linh được điều động về công tác tại Sài Gòn, tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Sài Gòn – Chợ Lớn. Đầu năm 1946  đồng chí lại được điều động từ miền Tây Nam Bộ về Sài Gòn – Chợ Lớn để chỉ đạo phong trào cách mạng nội thành.

Đồng chí đã hoạt động hết mình, nghiên cứu, tìm hiểu, sâu sát thực tiễn từng công việc, từng con người trong các tổ chức cách mạng lúc bấy giờ và đã thống nhất được các tổ chức Đảng, tổ chức Việt Minh, thành lập nên Thành ủy lâm thời Sài Gòn – Chợ Lớn. Vào giữa năm 1947, Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 15 đồng chí được Hội nghị cán bộ mở rộng Đảng bộ Sài Gòn – Chợ Lớn cử ra, do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm bí thư.

Cùng với việc thống nhất tổ chức Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cùng Thành ủy xây dựng các đoàn thể quần chúng, lực lượng nòng cốt của phong trào cách mạng thành phố. Nắm bắt tâm tư của quần chúng, nhất là công nhân, viên chức, trí thức … sau ngày Nam bộ kháng chiến, đồng chí đã lãnh đạo Đảng bộ Thành phố nghiên cứu các hình thức tập hợp quần chúng thích hợp, dần dần đưa các giới đồng bào tham gia vào các đoàn thể cứu quốc như Thanh niên, Phụ nữ, Công đoàn, Mặt trận Việt Minh v.v…

Chỉ trong vòng một năm, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy do đồng chí Nguyễn Văn Linh đứng đầu, Sài Gòn – Chợ Lớn đã thành lập được 33 chi bộ, tuy số lượng đảng viên chưa đông song là cơ sở vững chắc vừa lãnh đạo, chỉ dẫn vừa làm hạt nhân cho phong trào cách mạng của quần chúng thành phố.

Sau cao trào cách mạng 1950, tiêu biểu là phong trào công nhân và học sinh, sinh viên đòi dân sinh dân chủ, chống can thiệp Mỹ (nổi bật là sự kiện lịch sử 9/1/1950 và 19/3/1950), thực dân Pháp đã phản công mạnh, các cơ sở đảng thành phố đều bị đánh phá, các quận ủy hầu như bị  tê liệt, các Hộ ủy*  tự giải tán, các đoàn thể quần chúng hoạt động yếu …

Một lần nữa, Sài Gòn – Chợ Lớn lại đòi hỏi đồng chí Nguyễn Văn Linh, lúc đó đang là Bí thư khu IX, trở về trực tiếp lãnh đạo Thành phố. Trong tình hình phức tạp, ngặt nghèo như trên, để bảo toàn lực lượng và tiến hành hoạt động phù hợp, đồng chí đã triệu tập Hội nghị thành lập Đặc khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn; đồng chí được bầu làm bí thư Đặc khu ủy, kiêm chính ủy Đặc khu.

Với sự am hiểu về chiến trường đô thị, với tính “căn cơ” của một người lãnh đạo lâu năm ở những địa bàn ác liệt, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã có những chủ trương và biện pháp thích hợp, từng bước củng cố các cơ sở cách mạng của thành phố, tổ chức bộ máy lãnh đạo gọn nhẹ, chấn chỉnh lại các tổ chức quần chúng, phát triển chiến tranh du kích trong môi trường đô thị. Chỉ trong 2 năm, các cơ sở Đảng, đoàn thể quần chúng, lực lượng võ trang của Thành phố đã từng bước được khôi phục, thành phố vượt qua được giai đoạn gian nan ác liệt nhất. Cuối năm 1952, đồng chí lại được TW điều đi chiến trường khác.

Như vậy sau cách mạng Tháng Tám, trong thời kỳ chống Pháp, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã có hai lần với cương vị là Bí thư Thành ủy rồi bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn đã có công lớn trong xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, các đoàn thể quần chúng, lực lượng cách mạng trong công nhân và nhân dân lao động, khôi phục và phát triển phong trào cách mạng đô thị trong những tình huống gian nan, ngặt nghèo.

Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, với cương vị Quyền Bí thư Xứ ủy Nam bộ, Bí thư TW Cục miền Nam, Phó Bí thư TW Cục Miền Nam, đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn được phân công chỉ đạo phong trào cách mạng Sài Gòn – Gia Định, trong đó có ba lần trực tiếp làm Bí thư Thành ủy và khu ủy Sài Gòn – Gia Định (1955 – 1957; 1964 – 1965; 1972 – 1973); ngoài ra còn một lần giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy “khu trọng điểm” gồm Sài Gòn – Gia Định và một phần các tỉnh tiếp giáp với  Sài Gòn – Gia Định thời kỳ Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Như vậy, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn gắn bó mật thiết với Đảng bộ và nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định. Phong trào cách mạng ở đô thị lớn nhất, là trung tâm đầu não của kẻ thù, luôn gắn liền với sự nghiệp của đồng chí Nguyễn Văn Linh, người gánh vác trọng trách cao nhất của Đảng bộ vào những thời điểm đầy cam go, ác liệt.

Công lao của đồng chí được thể hiện trên mọi lĩnh vực, từ xây dựng, củng cố tổ chức Đảng và các đoàn thể cách mạng, tập hợp lực lượng quần chúng đến việc đào tạo cán bộ, sáng tạo những phương pháp biện pháp hành động thích hợp có hiệu quả ở chiến trường đô thị, nơi tập trung đầu não của kẻ thù.

Từ khi Miền Nam hoàn toàn được giải phóng đến cuối đời, đồng chí giữ cương vị Bí thư Thành ủy TP.HCM trong 2 thời kỳ. Đó là lúc thành phố mới được giải phóng, biết bao khó khăn, phức tạp với hàng loạt nhiệm vụ cấp bách được đề ra; và “thời kỳ cao điểm” của cơ chế quan liêu bao cấp với sự khủng hoảng kinh tế - xã hội nặng nề nhất (tháng 12/1981 đến 6/1986). Từ thực tế ấy, với sự kiên định mục tiêu chiến lược, sáng tạo trong sách lược, phương pháp hành xử, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cùng Đảng bộ Thành phố mang tên Bác Hồ vĩ đại đã phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tinh thần “hòa hợp dân tộc”, động viên mọi nguồn lực, năng động, sáng tạo đi đầu trong việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong quản lý kinh tế ở thành phố; kiên trì đấu tranh, dựa vào thực tiễn sinh động, dựa vào dân, coi lợi ích của dân là tối thượng, lấy sự phát triển của sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống của nhân dân là tiêu chuẩn kiểm nghiệm sự đúng – sai của chính sách, từ đó làm sáng tỏ dần con đường đi và cách làm mới, tư duy mới, đóng góp tích cực và có hiệu quả  cao vào sự hình thành đường lối đổi mới của Đảng.

Với “biên niên sử” tóm lược trên đây, có lẽ ai ai cũng thẩm thấu sâu sắc công lao to lớn của đ/c Nguyễn Văn Linh đối với phong trào cách mạng ở đô thị lớn nhất nước – Sài Gòn – Gia Định – Thành phố Hồ Chí Minh qua các thời kỳ lịch sử, nhất là những thời điểm sóng gió, cam go, khốc liệt, với những bứt phá ngoạn mục mang dấu ấn quan trọng trong lịch sử hào hùng của một thành phố anh hùng – thành phố mang tên Bác Hồ vĩ đại.

2/ Đồng chí Nguyễn Văn Linh đã góp phần quan trọng trong việc xác định đúng đắn vị trí của thành phố và không ngừng phấn đấu nâng tầm của thành phố qua các thời kỳ lịch sử.

Trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, nhất là trong 2 cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta, như trên đã nói, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã dành một sự “chăm sóc đặc biệt” cho phong trào cách mạng đô thị mà trọng tâm trọng điểm là Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định.

Theo đồng chí, cách mạng sẽ thành công nếu phong trào đô thị mạnh; phong trào đô thị mạnh sẽ hỗ trợ đắc lực cho toàn cục. Từ kinh nghiệm lịch sử cách mạng nước ta, đồng chí khẳng định rằng cách mạng miền Nam sẽ phải kết thúc ở Sài Gòn – đầu não của kẻ thù ** . Từ đó mà chúng ta không đi theo con đường “nông thôn bao vây thành thị” mà hình thành nên đường lối “3 vùng chiến lược” với phương châm “2 chân 3 mũi” kết hợp hài hòa, đồng bộ trong từng thời kỳ, từng nơi, từng lúc.

Sau giải phóng, nhất là 10 năm đầu, sự đánh giá, nhận định về Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh dường như tồn tại rất nhiều ý kiến khác nhau. Trước hết là sau giải phóng, vốn là “thủ đô” chế độ cũ, nên bị nhiễm nặng chủ nghĩa thực dân mới, biết bao thói hư tật xấu được liệt kê ra làm cho mọi người nhìn nhận Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh như một bức tranh có nhiều vết mờ, không hấp dẫn lắm. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đã định hướng : “Không có gì khó khăn nếu chúng ta liệt kê mặt xấu, mặt tiêu cực của con người thành phố. Cái khó khăn là làm sao nhân dân thành phố khẳng định mặt tốt cơ bản của mình”.

Rồi trong thời kỳ hiểm nghèo, vừa đói khổ vừa thiên tai, địch họa, với vô vàn khó khăn tưởng chừng như không vượt qua được, thành phố đã năng động sáng tạo tìm cách làm ăn mới, tháo gỡ khó khăn, “tự cứu mình” lại bị nhiều người phê phán nghiêm khắc thành phố Hồ Chí Minh chạy theo “cơ chế thị trường”, phát triển “chủ nghĩa tư bản”, bước xuống sân bay Tân Sơn Nhất là nghe “sặc mùi Nam Tư”.

Năm 1982, chỉ trong vòng một tháng có 6 đoàn kiểm tra đến Thành phố đã đặt ra nhiều vấn đề, phê phán gay gắt; từ đó một số qui định về xuất nhập khẩu, về kiều hối, điều chỉnh giá bán buôn v.v… được ban hành lại trói tay các đơn vị sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện đó, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã tỏ rõ bản lĩnh kiên cường, bám sát mục tiêu chiến lược, bám sát thực tế để có những cách làm mới phù hợp với vị trí của thành phố, đúng với bản chất cơ bản của con người, của các giới đồng bào đô thị vốn đã kiên cường trong cách mạng giải phóng dân tộc để làm nên những chiến công chói lọi trong lịch sử dân tộc.

Tháng 9/1982, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 01-NQ/TW khẳng định “Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn, một trung tâm giao dịch quốc tế và du lịch của nước ta. Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí chính trị quan trọng sau Thủ đô Hà Nội”.

Thực hiện Nghị quyết 01-NQ/TW của Bộ Chính trị, với cương vị Bí thư Thành ủy, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã bám sát thực tiễn phát huy sức mạnh, trí tuệ của nhân dân Thành phố, đã đề ra và thực hiện nhiều chính sách phù hợp, năng động sáng tạo, dám làm dám chịu trách nhiệm, các khó khăn dần dần được tháo gỡ, tạo điều kiện cho kinh tế thành phố được tăng trưởng liên tục, góp phần nâng cao vị thế của Thành phố. Tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm thời kỳ 1980 – 1985 đạt 8,17% so với 2,18% thời kỳ 1978 – 1980. Thu ngân sách địa phương năm 1985 gấp 43 lần năm 1980, v.v…

Đồng chí Nguyễn Văn Linh khẳng định : Thành phố sở dĩ vững vàng như 10 năm qua (1975 – 1985 – PXB) vì nó được trả về vị trí vốn có của nó : Thành phố của công nhân, của công nghiệp, của khoa học kỹ thuật, thành phố trẻ - cả về sinh lực, tầm hồn  và óc sáng tạo***. 

Khẳng định vị trí Thành phố “cùng cả nước, vì cả nước” thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, Thành phố Hồ Chí Minh đã không ngừng vững bước tiến lên trên tất cả các lĩnh vực, vị trí trung tâm về nhiều mặt được hình thành và ngày càng được vun bồi.

Ngày 18/11/2002, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 20-NQ/TW đã nhấn mạnh “Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất nước ta, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước …” Thành phố đạt được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng – an ninh …, luôn giữ vững vai trò đầu tàu trong tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư, tạo nguồn ngân sách, giải quyết các vấn đề xã hội … Diện mạo Thành phố ngày càng khang trang, hiện đại, đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao. Đảng bộ và nhân dân Thành phố mãi mãi ghi lòng tạc dạ công ơn trời biển của Đảng, Nhà nước, của Bác Hồ kính yêu, của các vị tiền bối cách mạng, các đồng chí lãnh đạo kiệt xuất của Trung ương và Thành phố, gắn bó máu thịt, am tường thành phố, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Linh, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, nhân dân và quân đội ta, người đứng đầu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh trong nhiều thời kỳ, người công dân xuất sắc của Sài Gòn cách mạng – Thành phố Hồ Chí Minh anh hùng.

3/ Đồng chí Nguyễn Văn Linh là tấm gương sáng về nhiều mặt, đã để lại cho Đảng bộ và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh những bài học kinh nghiệm quí báu.

Lời điếu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Khả Phiêu đọc tại Lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Văn Linh, ngày 29/4/1998 đã đánh giá : “Đồng chí (Nguyễn Văn Linh) đã trải qua nhiều vị trí lãnh đạo khác nhau ở nhiều địa phương và ở cơ quan Trung ương, dù ở đâu, làm việc gì, đồng chí cũng đem hết trí tuệ, sức lực để cống hiến cho Đảng và nhân dân …, luôn trau dồi kiến thức và lắng nghe ý kiến đồng bào, đồng chí quan tâm tổng kết thực tiễn để  làm sáng tỏ và góp phần xây dựng các quan điểm, đường lối của Đảng”. Đó là chân dung một vị lãnh tụ, 1 người cộng sản chân chính, là công lao to lớn của 1 người con ưu tú của dân tộc Việt Nam anh hùng – đồng chí Nguyễn Văn Linh. Với Thành phố Hồ Chí Minh, sự đánh giá đó đã bao quát đầy đủ. Từ thực tiễn hôm nay của Thành phố, tôi xin nhấn mạnh mấy điểm, mà theo tôi, nó dường như vẫn còn nguyên giá trị.

3.1. Luôn trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên trì mục tiêu chiến lược, năng động, sáng tạo, nhạy bén trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện.

Trải qua công tác ở nhiều phương diện, được trui rèn trong môi trường ác liệt, khiêm tốn học hỏi, chăm chỉ nghiên cứu, tự nâng cao trình độ, bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã có những tư duy tầm chiến lược và kiên trì với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Có lẽ điều đó thể hiện rõ nét nhất là trong chỉ đạo chiến tranh giải phóng với nhiều năm giữ trọng trách trong Trung ương Cục miền Nam và ở Sài Gòn – Gia Định.

Như trên đã nêu, khi nào tình thế quá ngặt nghèo, gian nan là lại yêu cầu xuất hiện Nguyễn Văn Linh. Chính nhờ đó, đã góp phần cùng toàn Đảng, hình thành nên đường lối kháng chiến đúng đắn, vượt qua mọi thử thách, đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc. Trong quá trình đó, dấu ấn mang tầm chiến lược của đồng chí Nguyễn Văn Linh thể hiện ở các sự kiện : 1) Trong phong trào Đồng Khởi, đồng chí Nguyễn Văn Linh là người kiến trúc chiến lược vận dụng sức mạnh của quần chúng từ mức thấp đến mức cao, dẫn đến cao trào đồng khởi. 2) Đồng chí Nguyễn Văn Linh là người chăm lo “2 chân, 3 mũi”, song song với đấu tranh chính trị đồng chí nghĩ  sớm đến việc xây dựng lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang cùng công tác binh vận, công tác vận động trí thức, từ đó hình thành dần phương châm “2 chân, 3 mũi”. 3) Có tư duy mới mang tính căn cơ, tầm nhìn sâu xa về căn cứ địa cách mạng; theo đồng chí Nguyễn Văn Linh thì căn cứ địa không phải là nơi ẩn náu đầu não lãnh đạo mà phải gần các vùng cư dân, vừa tạo thế du kích chiến tranh trong lòng địch vừa giải quyết tốt hậu cần. 4) Luôn phải “căn cơ” trong xây dựng lực lượng cách mạng, bởi có “lực” mới tạo nên “thế” rồi đi đến thắng lợi theo nguyên lý cơ bản “lực to”, “thế mạnh” thì “thắng lớn”. Hội nghị Thành ủy vào cuối 1971 đầu 1972 mang tên “Hội nghị Bình Giả V” đã thể hiện đầy đủ và sâu sắc tư tưởng căn cơ, mang tầm chiến lược đó của đồng chí Nguyễn Văn Linh.

Tầm nhìn chiến lược của đồng chí Nguyễn Văn Linh còn thể hiện rất rõ trong quá trình hình thành đường lối Đổi mới và chỉ đạo thực hiện đường lối Đổi mới trong giai đoạn đầu – giai đoạn khủng hoảng kinh tế-xã hội trong nước và khủng hoảng của phe xã hội chủ nghĩa nói chung. Những nguyên tắc Đổi mới của Đảng ta dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thể hiện sự kiên trì mục tiêu chiến lược, sự trung thành với CNXH, đồng thời thể hiện tầm nhìn chiến lược, kết hợp với những chỉ đạo cụ thể, thiết thực, tỉ mỉ …, đó là một trong những nguyên nhân tạo nên sự thành công của Đổi mới. Điều này được thể hiện rõ trong tác phẩm “Đổi mới để tiến lên” của đồng chí Nguyễn Văn Linh, do Nhà xuất bản Sự Thật xuất bản 1988.

Trong bối cảnh hiện nay, nhất là khi Thành phố đang cùng cả nước đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tích cực hội nhập quốc tế, những tầm nhìn chiến lược và sự chỉ đạo sắc sảo, sát thực tiễn với hiệu quả vững chắc, là bài học nóng hổi, có giá trị lý luận và thực tiễn cao.

3.2. Bám sát thực tiễn, hiểu dân, trọng dân, lo cho dân là động lực và mục tiêu của sự sáng tạo, là phương châm, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh.

Nếu chúng ta đọc nhiều bài viết, bài phát biểu chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh, đặc biệt là đọc chương XI trong cuốn “Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm” NXB Sự Thật – 1985 từ trang 244, chúng ta thấy sự am hiểu của đồng chí Nguyễn Văn Linh đối với các giai cấp, tầng lớp, các giới đồng bào Thành phố như thế nào.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiều mặt, trong đó về tình nhân ái, thương dân là một trong những lĩnh vực nổi bật. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đã nhận thức sâu sắc tư tưởng và làm theo tấm gương Bác Hồ khi đánh giá về dân, thấm thấu triết lý được các bậc minh quân, triết gia tổng kết “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, “dân là gốc” … vì vậy mà trong bao thời kỳ đồng chí lăn lộn trong phong trào ở vùng tạm chiếm vẫn được đồng bào che chở, bảo vệ.

Đời sống và phong trào của nhân dân Sài Gòn – Gia Định là chất liệu thực tiễn để đồng chí Nguyễn Văn Linh rút ra những bài học bổ ích, hoạch định những chủ trương thích hợp, hình thành phong cách lãnh đạo đúng đắn cho Thành ủy Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh.

Với cương vị người đứng đầu Đảng bộ hoặc ở Trung ương Cục trực tiếp chỉ đạo công tác đô thị, đồng chí thường xuyên nhắc nhở cấp ủy cũng như từng đảng viên cộng sản phải luôn luôn quan tâm bảo vệ lợi ích thiết thân của quần chúng như đòi tăng lương, giảm thuế, chống đuổi nhà, đuổi chợ v.v… Đưa ra khẩu hiệu, hình thức đấu tranh phải thích hợp, phải từ nguyện vọng, quyền lợi, bức xúc của quần chúng trong mối tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch trong từng thời điểm cụ thể. Có như vậy thì quần chúng mới hưởng ứng, tham gia, và qua đó nâng cao trình độ giác ngộ cho quần chúng. Từ đó mà xây dựng lực lượng cách mạng, phát triển thực lực, đảm bảo cho cách mạng thắng lợi. Với phương châm đó, Sài Gòn – Gia Định là thành phố đi đầu với nhiều phong trào tiêu biểu của quần chúng : phong trào nhân dân đòi quyền sống, phong trào học sinh sinh viên, phong trào phụ nữ bảo vệ nhân phẩm, ký giả “đi ăn mày” v.v…

Sau giải phóng, việc đánh giá đúng con người thành phố là hết sức quan trọng, nếu không thì khó lòng tìm ra được kế sách và chủ trương đúng đắn.  Từ kinh nghiệm của lịch sử và của bản thân, đồng chí Nguyễn Văn Linh chủ trương “phải biết phân tích những đặc điểm lịch sử của thành phố và con người thành phố để chọn lựa hướng đột kích chủ yếu”.

Phân tích cơ cấu xã hội của thành phố, sự chuyển biến của các tầng lớp qua những  năm đầu giải phóng với nhiều chiều kích khác nhau, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã đánh giá : nhân dân Thành phố khẳng định thế đứng dưới ngọn cờ xã hội chủ nghĩa bởi vì nhân dân thành phố được khơi dậy mạnh mẽ niềm tự hào trong đấu tranh dân tộc và giai cấp đã qua, nối tiếp sự nghiệp ngày nay thuận chiều với truyền thống quá khứ, tự tin ở năng lực cách mạng của mình**** .

Đó chính là sự thể hiện bản lĩnh vững vàng, sự am hiểu sâu sắc bản chất và sức mạnh to lớn của nhân dân, từ đó có những bước đột phá thích hợp, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, tạo nên sức mạnh vượt qua khó khăn vướng mắc, thoát ra khỏi cơ chế cũ, tìm cách làm mới với tư duy mới, góp phần tích cực vào việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng.

Với cách nhìn đó, đồng chí Nguyễn Văn Linh cùng tập thể cấp ủy các cấp đã chú trọng đi sâu sát thực tiễn, phát hiện, cổ vũ cho cách làm mới, thí điểm, tổng kết, nhân rộng các gương điển hình. Trong điều kiện cuộc đấu tranh giữa bảo thủ, trì trệ với đổi mới cách nghĩ, cách làm diễn ra gay gắt, bất phân thắng bại, thậm chí còn bị ngộ nhận, chụp mũ, đồng chí Nguyễn Văn Linh  vốn tin dân, trọng dân, luôn dựa vào dân nên đã kiên trì xuống cơ sở, gặp gỡ cán bộ và nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng, thắc mắc của dân, rồi cùng cán bộ cơ sở bàn bạc, tháo gỡ. Trên cơ sở đó, phân tích kỹ lưỡng từ nhiều phía, tổng kết thực tiễn, nâng lên thành chủ trương chính sách chung. Cái gì chưa thống nhất thì tiếp tục tranh luận, nhưng phải trên cơ sở thực tiễn, vì lợi ích chung và lợi ích của người lao động, của nhân dân.

Cho đến nay, những câu chuyện về tháo gỡ khó khăn, tìm cách làm mới ở các đơn vị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ thời bao cấp, thời “xé rào”, “làm lén” vẫn còn được lưu giữ trong ký ức của nhiều người. Mỗi lần nhắc đến người ta đều kể về những người lãnh đạo luôn khuyến khích, “bảo hộ”, “bật đèn xanh”, trong đó không thể không “chịu ơn” đồng chí Nguyễn Văn Linh. Những việc làm như xóa bao cấp, thực hiện 3 lợi ích, lương sản phẩm trong xí nghiệp, khoán sản phẩm trong nông nghiệp, trong đánh bắt cá ở ngoài biển, vấn đề cải tạo công thương nghiệp, hợp doanh, nhập khẩu nguyên liệu, khôi phục các ngành thủ công nghiệp v.v…, với các địa chỉ như công ty Lương thực thành phố, gạch bông Đức Tân, câu lạc bộ Giám đốc, Dệt Thành Công, dệt Phước Long, Phong Phú, Việt Thắng, Cao su Phạm Hiệp v.v… mãi mãi khắc ghi công ơn đồng chí Nguyễn Văn Linh qua những lần khảo sát thực tiễn.

Đặc biệt, một sự kiện đáng nhớ có mối quan hệ hữu cơ đến công cuộc đổi mới của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và của cả nước nói chung, đồng thời cũng thể hiện quan điểm “thực tiễn là ông Thầy kiểm nghiệm chính xác, người phán xét cuối cùng”, và suy cho cùng là vì lợi ích của người lao động – đó là “sự kiện Đà Lạt” vào trung tuần tháng 7 năm 1983.

Từ khảo sát thực tiễn, tổng kết những thí điểm về đổi mới để có cách làm ăn có hiệu quả, bảo đảm đời sống công nhân, phát triển sản xuất kinh doanh, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã tổ chức cho giám đốc các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố có cách làm mới theo cơ chế của Thành phố trực tiếp báo cáo với các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Trung ương, rồi mời các đồng chí đến tham quan, khảo sát thực tế … Sự kiện đó đã đóng góp tích cực, có hiệu quả, tác động đến sự hình thành đường lối Đổi mới.

Những sự kiện, những việc làm liên quan đến hoạt động của đồng chí Nguyễn Văn Linh trên đây hẳn rằng không chỉ có ý nghĩa trong quá khứ, mà mãi mãi vẫn có giá trị trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc Đổi mới hiện nay.

Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh luôn luôn coi bài học dựa vào sức mạnh của dân, phát huy tính năng động, sáng tạo của con người thành phố cũng như phong cách làm việc sâu sát, cụ thể, phát huy trí tuệ của tập thể và nhân dân, tìm cách đột phá thích hợp, tạo ra thế và lực mới cho thành phố không ngừng phát triển … là bài học quí báu đã trở thành truyền thống và thế mạnh của thành phố *****.

3.3. Bài học “căn cơ” trong xây dựng Đảng và xây dựng lực lượng cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Linh vẫn còn nguyên giá trị.

Không biết từ bao giờ, cứ mỗi lần nhắc đến đồng chí Nguyễn Văn Linh, nhiều bậc cán bộ lão thành, các vị cao niên quen dùng biệt danh “ông già căn cơ” hay là người có “toa căn bản”. Do quá trình công tác của đồng chí, nhiều năm lăn lộn sâu sát cơ sở ở những vùng tạm chiếm, tính “căn cơ” bản lĩnh của đồng chí đã thể hiện ở sự kết hợp hài hòa giữa trí tuệ mẫn tiệp với phong cách, tính tình điềm đạm thâm trầm có chiều sâu ****** .

Tính “căn cơ” của đồng chí Nguyễn Văn Linh được thể hiện trên nhiều mặt, trong đó về công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng được thể hiện rõ nét và luôn nhất quán. Nhiều lần được điều động về làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn trước ngày giải phóng miền Nam 1975, lần nào đồng chí cũng chú trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức của phong trào cách mạng, xây dựng lực lượng trong công nhân, nhân dân lao động, trong các giới đồng bào thành phố. Chính nhờ đó mà qua những chặng đường cam go, ác liệt, tổ chức Đảng và các tổ chức cách mạng của Thành phố vốn là trung tâm đầu não của địch dù có lúc bị tổn thất song chưa bao giờ bị gián đoạn. Đó chính là hiệu quả rõ rệt của “toa căn bản” trong xây dựng thực lực cách mạng.

Đồng chí Trần Bạch Đằng, cán bộ lão thành gần gũi với đồng chí Nguyễn Văn Linh tâm sự : “Về xây dựng thực lực, anh (NVL) rất nghiêm khắc đối với những sơ sót dẫn đến tổn thất cơ sở và luôn nhắc “toa căn bản” : phải có thực lực thì mới có thể thắng to*******. 

Sau giải phóng, với cương vị Bí thư Thành ủy, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã có nhiều chỉ đạo về công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với những nhiệm vụ hoàn toàn mới ở một thành phố rộng, dân đông, trung tâm của khu vực và có vị trí quan trọng đối với cả nước.

Đồng chí nói : “Từ sau 30 tháng tư 1975, Đảng bộ Thành phố trở thành đảng bộ cầm quyền sau 45 năm đấu tranh chính trị và vũ trang, tồn tại bí mật …”, Đảng bộ Thành phố vốn được trui rèn, thử thách trong bối cảnh khác hẳn những gì Đảng bộ phải gánh vác trách nhiệm sau ngày đại thắng. Ngoài sự bỡ ngỡ về công tác quản lý nhà nước và những vấn đề kinh tế, Đảng bộ còn hạn chế ở một loạt phương diện quan trọng, trước hết là chỗ đứng để nhìn thành phố. Chính vì vậy mà công việc đầu tiên là phải nâng cao nhận thức.

Đồng chí đã tập trung chỉ đạo tháo gỡ cơ chế ràng buộc sức sản xuất, cung cách quản lý kinh tế-xã hội, mà theo đồng chí phải “bước ra khỏi vòng phấn do ta khoanh, thoát ra khỏi cảnh làm tù binh của chúng ta”. Trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, đồng chí Nguyễn Văn Linh, ngay từ những năm đầu sau giải phóng, đã quan tâm đặc biệt đến “xây và chống” trong nội bộ Đảng, mà mũi nhọn chống là  bệnh quan liêu.

Đồng chí viết : “Quan liêu không phải là bản chất của chế độ, nhưng lại là bệnh lây lan trong điều kiện Đảng cầm quyền. Biểu hiện của nó ở thành phố là một số bộ phận, một số người quên cội nguồn sức mạnh của cách mạng là quần chúng, chỉ biết cấp trên mà không biết quần chúng, nguội lạnh trước những khó khăn bức xúc của sản xuất và đời sống mà quần chúng đang mong chờ Đảng quan tâm giải quyết”.

Đồng chí cũng rất quan tâm đến công tác cán bộ mà trước hết là phẩm chất đạo đức. Theo đồng chí thì “đạo đức cộng sản chủ nghĩa cổ vũ tính trung thực. Đảng cầm quyền, tính trung thực trong nội bộ Đảng là tấm gương cho toàn xã hội và cho các thế hệ noi theo. Khẳng định phẩm chất đó cần đi đôi lên án thẳng thừng như một tội lỗi (chữ Lênin), các hiện tượng báo cáo sai sự thật, báo cáo để tâng công với cấp trên, phản ánh tình hình không cần thực tế mà bám sát “tì vị” của cấp trên, không sợ quần chúng phản ứng chỉ sợ cấp trên khiển trách v.v…********.

Đồng chí còn rất tỉ mỉ, cụ thể trong việc chỉ đạo để có sự chuyển biến cơ cấu thành phần đảng viên trong Đảng bộ Thành phố, bảo đảm tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân trực tiếp sản xuất, trực tiếp quản lý sản xuất, có văn hóa và trẻ ngày mỗi đông hơn để tương ứng với tính công nghiệp của Thành phố. Phải tránh tình trạng kết nạp đảng viên theo lối cảm tình, gia tộc, bè phái …

Có lẽ không cần phân tích, bình luận gì thêm những câu trích dẫn lời nói, bài viết trên đây của đồng chí Nguyễn Văn Linh về công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng, công tác cán bộ.

Trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta đang thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng là “nhiệm vụ then chốt”, thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tiến hành Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XI của Đảng với chủ đề “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, những ý kiến mang tính tổng kết, chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh về công tác xây dựng Đảng vẫn còn tính thời sự cấp thiết, sát thực, phù hợp.

Trong Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX (2010 – 2015) cũng đã nêu lên bài học : “phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị với truyền thống năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của nhân dân Thành phố”, “tăng cường công tác xây dựng Đảng bộ vững mạnh …, thường xuyên tự chỉnh đốn, đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng đảng; thường xuyên chăm lo công tác cán bộ, coi đó là “cái gốc của mọi công việc”, là “khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt”; “mọi chính sách phải xuất phát từ quyền lợi của nhân dân, dựa vào dân, tin dân, trọng dân, vì dân …”. Như vậy, những tư tưởng mang tầm nhìn chiến lược, những chỉ đạo thực tiễn sâu sát của đồng chí Nguyễn Văn Linh vào thế kỷ trước đã được Đảng bộ, các thế hệ lãnh đạo và nhân dân Thành phố thực hiện trong gần 3 thập kỷ qua,  được đúc kết thành bài học kinh nghiệm quí báu, tiếp tục thực hiện trong thời kỳ mới – thời kỳ xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thành thành phố XHCN, văn minh, hiện đại.

Rõ ràng, trải qua nhiều thời kỳ gắn bó máu thịt với Sài Gòn – Gia Định – Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt có những thời kỳ cam go, ác liệt với muôn ngàn thử thách gay gắt, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã đóng góp công lao to lớn cho sự nghiệp xây dựng, phát triển Thành phố trở thành một trung tâm nhiều mặt của cả nước, có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước Việt Nam thống nhất. Và, chính thực tiễn sinh động, phong phú của Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh là môi trường thử thách, trui rèn bản lĩnh, nâng cao trí tuệ, tích lũy kinh nghiệm và nâng tầm đồng chí Nguyễn Văn Linh trở thành người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “người lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, nhân dân và quân đội ta, người bạn tin cậy của bạn bè quốc tế”..

Tháng 6.2010

PGS.TS Phan Xuân Biên
                                                                                    Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM


* Tương tự như cấp xã, phường hiện nay

** Xem Trần Bạch Đằng. Có một người VN như thế! Có một đảng viên cộng sản Việt Nam như thế! Có một công dân Sài Gòn-TPHCM như thế. Trong cuốn Nguyễn Văn Linh - hành trình cùng lịch sử. NXB Trẻ 1999.tr.28

*** Bài học 10 năm-Triển vọng. Xem Bản thảo: Nguyễn Văn Linh tuyển tập - Tập 1 (Phần B) Nhà XB Chính trị Quốc gia. 2010-tr.1266

**** Sách vừa dẫn trang 1265

***** Xem Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ VIII của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 12/2005.tr.43-44

****** Xem Nguyễn Vinh Nghiệp. "Ông già căn cơ", trong sách: Nguyễn Văn Linh - hành trình cùng lịch sử.tr 106

******* Xem Trần Bạch Đằng. Sách vừa dẫn - tr.28

******** Những đoạn trong ngoặc kép trên đây là trích dẫn từ mục III trong "Bài học 10 năm". Tài liệu đã dẫn, tr.1269-1280

Tin cùng chuyên mục