
Tình trạng phát thải bụi than, tro xỉ vẫn là vấn đề nan giải
Tại các cuộc làm việc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Tạ Đình Thi nêu nhiều vấn đề đoàn giám sát quan tâm như những nội dung còn hạn chế trong công tác bảo vệ môi trường; khó khăn khi thực hiện các quy định mới; khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường ngày càng nghiêm ngặt; cũng như việc triển khai các chính sách chuyển đổi xanh, giảm phát thải khí nhà kính…

Trong đó, với EVN, từ ngày 1-7-2025, các nhà máy nhiệt điện sẽ phải áp dụng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 19:2024/BTNMT về khí thải công nghiệp nhiệt điện, thay thế cho QCVN 22:2009/BTNMT hiện hành. So với trước đây, các chỉ tiêu về bụi, SO₂, NOx trong quy chuẩn mới khắt khe hơn rất nhiều. Việc đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống xử lý khí thải để đáp ứng các yêu cầu mới là một thách thức lớn, nhất là về kỹ thuật, tài chính và tiến độ triển khai. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của tập đoàn như thế nào. Quản lý chất thải rắn công nghiệp, nhất là tro xỉ của nhà máy nhiệt điện cũng là vấn đề được thành viên đoàn giám sát đặt ra. Cụ thể là tại Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân, tình trạng phát thải bụi than, tro xỉ vẫn là vấn đề nan giải, cần có các giải pháp cả trước mắt và dài hạn. Cũng theo đoàn giám sát, EVN chưa thực hiện kiểm kê toàn diện và tổng thể lượng khí nhà kính phát thải hàng năm, vì vậy chưa định lượng được kết quả giảm phát thải khí nhà kính và đánh giá được hiệu quả của các giải pháp đầu tư mà tập đoàn đã thực hiện trong các năm qua.
Báo cáo với đoàn giám sát, Tổng Giám đốc EVN Nguyễn Anh Tuấn khẳng định, EVN luôn xác định, bảo vệ môi trường không chỉ là nghĩa vụ pháp lý và trách nhiệm xã hội, mà còn là yếu tố then chốt bảo đảm sự phát triển bền vững và vận hành lâu dài của từng nhà máy điện trong hệ thống. Trong quá trình quản lý, vận hành, EVN và các đơn vị thành viên luôn tuân thủ đầy đủ các cam kết về bảo vệ môi trường, đồng thời đầu tư lắp đặt hệ thống xử lý và quan trắc môi trường tự động tại các cơ sở sản xuất điện.
Tính đến nay, tất cả các nhà máy điện thuộc EVN đã được cấp giấy phép môi trường. Các hệ thống giám sát nước thải đã được triển khai đồng bộ, dữ liệu quan trắc được công bố công khai theo quy định. Phần lớn các nhà máy nhiệt điện than đã hoàn tất việc đầu tư hệ thống xử lý khí thải, đảm bảo đáp ứng các quy chuẩn kỹ thuật hiện hành.

Thừa nhận 2 nhà máy Nhiệt điện Phả Lại 1 và Nhiệt điện Ninh Bình hiện chưa có hệ thống xử lý khí thải đạt yêu cầu, EVN xác định sẽ thay đổi công nghệ và tiến tới xây dựng mới hoàn toàn để đáp ứng các yêu cầu về môi trường trong thời gian tới. Về tình trạng phát sinh tro, bụi tại Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân, gây ảnh hưởng đến môi trường và đời sống người dân, Tổng Giám đốc EVN cho biết, EVN đã giao nhà máy xây dựng đề án kho than kín. Công trình dự kiến sẽ khởi công vào cuối năm 2025 và hoàn thành trong vòng 6 tháng.
Còn nhiều tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật chưa được các bộ ban hành
Tại buổi làm việc với Vinachem, ông Lê Hoàng, Phó Tổng Giám đốc Vinachem, cho biết, tháng 5-2025, tập đoàn đã ban hành kế hoạch triển khai chuyển đổi xanh và chuyển đổi số, nhằm hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững. Tập đoàn cũng đã chỉ đạo và quán triệt tới thủ trưởng các đơn vị trực thuộc nghiêm túc triển khai kiểm kê khí nhà kính.
Đến ngày 30-6-2025, tổng lượng tro xỉ, chất thải gyps, thạch cao đang tồn đọng tại các bãi thải là hơn 7,4 triệu tấn, trong đó Công ty DAP tồn 3,85 triệu tấn, Công ty DAP 2 tồn 3,63 triệu tấn. Hiện, Công ty DAP 2 đã phối hợp với các đơn vị triển khai dự án bổ sung dây chuyền xử lý, tái chế gyps công suất 850.000 tấn/năm.
Theo lãnh đạo Vinachem, đến nay, còn nhiều tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật chưa được các bộ ban hành. Trong đó có tiêu chuẩn, quy chuẩn về việc xử lý thạch cao PG dùng làm vật liệu san lấp, vật liệu làm nền, móng đường giao thông, hoàn nguyên các khu vực đã kết thúc khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật về khoáng sản và đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường; hướng dẫn việc chôn lấp bã thải gyps (thạch cao PG) trong trường hợp bã thải gyps không thể sử dụng, tái chế. Đây là một trong những khó khăn lớn, khiến cho việc xử lý, tiêu thụ thạch cao PG chưa đạt được như mục tiêu.