Nền kinh tế phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao, nhu cầu “ăn no, mặc ấm” được thay bằng “ăn ngon, mặc đẹp”. Vấn đề chăm lo sức khỏe bản thân và gia đình ngày càng được quan tâm, dinh dưỡng vì thế ngày càng được chú trọng. Đặc biệt ở đối tượng trẻ em, những thiên thần nhỏ của mỗi gia đình, những mầm xanh tương lai của đất nước.
Khi trẻ mới sinh ra, sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng toàn diện và hợp lý nhất, phù hợp với nhu cầu và thể trạng non yếu của bé, giàu dưỡng chất, chứa các yếu tố bảo vệ trẻ đối với các tác nhân gây bệnh bên ngoài môi trường. Tuy nhiên, khi trẻ lớn hơn một chút, nhu cầu ngày càng cao cho sự phát triển cơ thể, một mình sữa mẹ không còn đảm đương nổi vai trò nuôi lớn bé, do đó bé cần ăn dặm, làm quen dần với tất cả các loại thức ăn khác, trong đó không thể thiếu sữa công thức.
Hiện nay, đa phần chúng ta đang hiểu sữa công thức dành cho trẻ là sữa bò vì tính phổ thông và sản lượng rất lớn trên thế giới. Tuy nhiên, với nhu cầu ngày càng cao của xã hội, cần sự đa dạng sản phẩm dinh dưỡng và sữa dê là một ví dụ. Ngày càng có nhiều người ưa thích sữa dê trong chế độ dinh dưỡng cho trẻ.
Giá trị dinh dưỡng của sữa dê
Một ly sữa dê 250ml cho 168kcal, 8,7g protein, 10g lipid, 10g đường lactose, 327mg canxi, nhiều vitamin và chất khoáng. Về cơ bản, thành phần dinh dưỡng của sữa dê gần giống sữa bò. Trung bình, sữa dê chứa khoảng 12,6% vật chất khô (3,5% protein, 4,1% chất béo, 4,1% đường lactose và 0,8% chất khoáng), sữa bò chứa khoảng 12,2% vật chất khô (3,2% protein, 3,6% chất béo, 4,7% đường lactose và 0,7% chất khoáng).
Sữa dê chứa nhiều acid amin thiết yếu như tryptophan, isoleucin, lysin, cystine, tyrosin, valine, đây là những chất cơ thể không tự tổng hợp được mà phải được cung cấp từ nguồn thức ăn bên ngoài. Một số vitamin trong sữa dê có hàm lượng cao hơn so với sữa bò, đặc biệt là vitamin A, retinol và vitamin B3. Sữa dê ít vitamin B12, vitamin C và D, nhưng hàm lượng khoáng Ca, K, Fe, Mg, P, Cu, Mn cao hơn sữa bò.
Đặc tính của sữa dê
Sữa dê dễ tiêu hóa hơn so với sữa bò. Protein của sữa dê chứa ít alpha-s1-casein giúp tiêu hóa và hấp thụ dễ dàng hơn, phù hợp cho trẻ nhỏ cũng như cho người có sức khỏe yếu hoặc đang dưỡng bệnh. Chất béo cũng dễ tiêu hóa hơn nhờ thành phần và cấu trúc của nó. Kích thước các hạt béo trong sữa dê chỉ khoảng 2 micro mét so với trong sữa bò đa số > 4 micro mét. Sữa dê không chứa agglutinin là chất kết dính nên các phân tử béo không co cụm lại với nhau. Hơn nữa hàm lượng các acid béo chuỗi trung bình cao hơn trong sữa dê cũng giúp tiêu hóa, hấp thụ tốt hơn.
|
Với việc chứa ít alpha-s1-casein hơn sữa bò, một thành phần gây dị ứng (18,92% trong sữa dê so với 30,8% trong sữa bò) nên sữa dê có thể dùng thay thế sữa bò cho người dị ứng với sữa bò. Đã có nhiều nghiên cứu lâm sàng chứng minh điều này, trong những nghiên cứu của Pháp hơn 20 năm với bệnh nhân dị ứng sữa bò, nguyên nhân được tìm thấy là do nhạy cảm với lactalbumin và alpha-s1-casein cũng như các whey protein lớn, β-lactoglobulin (Heyman và Desjeux, 1992); thay thế sữa bò bằng sữa dê dẫn đến cải tiến tình trạng này (Sabbah et al., 1997).
Mặc dù giữa sữa dê và sữa bò có sự khác biệt nhất định về một số thành phần và nguyên tố, sữa dê cũng không thể thay thế hoàn toàn sữa bò, nhưng với những giá trị dinh dưỡng đặc biệt, sữa dê được xem là một loại thực phẩm quý dành cho trẻ em và người ốm, người có cơ địa đặc biệt vì dễ tiêu hóa hơn nhiều so với sữa bò, ít gây dị ứng hơn. Đồng thời, sữa dê cũng làm phong phú hơn thị trường sản phẩm dinh dưỡng, giúp người tiêu dùng có thêm sự lựa chọn tối ưu cho gia đình mình.
| |
R.D.