LTS: Trong bản hùng ca bất diệt của dân tộc, có những con người chọn cho mình lẽ sống cao đẹp: thầm lặng hoàn thành nhiệm vụ, góp phần thống nhất non sông. Trước năm 1975, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã có hơn 4.000 ngày (1961-1973) kiên cường đấu trí căng thẳng với mạng lưới gián điệp, biệt kích do CIA (Cục Tình báo Trung ương Mỹ) và chính quyền Sài Gòn tung ra phá hoại miền Bắc. Mỗi trận đánh là một ván cờ sinh tử, song với trí tuệ và bản lĩnh, các cán bộ, chiến sĩ công an đã làm thất bại hoàn toàn âm mưu phá hoại hậu phương lớn - miền Bắc, giữ vững chi viện cho tiền tuyến lớn - miền Nam sớm giành thắng lợi. Những kỳ tích ấy đã tô thắm lịch sử lực lượng Công an nhân dân và mang lại nhiều bài học quý báu trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Trận địa không tiếng súng
Sau Hiệp định Genève năm 1954, đất nước tạm thời chia cắt hai miền. Miền Bắc trở thành hậu phương lớn, vừa nuôi dưỡng niềm tin thống nhất, vừa phải chuẩn bị đối phó với những âm mưu phá hoại từ bên kia giới tuyến. Không gian trầm lặng của các bản làng, thị xã, núi rừng giờ đây không còn yên bình tuyệt đối, bởi nguy cơ gián điệp, biệt kích đột nhập, phá hoại có thể ập đến bất cứ lúc nào. Trong hoàn cảnh ấy, việc xây dựng một “trận địa sóng” để định vị và chặn đứng từng tín hiệu phá hoại là nhiệm vụ sống còn.

Mỗi phút giây trôi qua, cán bộ kỹ thuật, an ninh không ai cho phép mình sai sót, bởi đằng sau những chiếc tai nghe và máy điện báo là mạng sống, là vận mệnh của cả miền Bắc thân yêu. Một dấu mốc đặc biệt được ghi lại trong tài liệu lịch sử ngành công an: ngày 1-7-1954, tại bản Đung (xã Công Đa, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang), Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn trực tiếp gặp 5 cán bộ kỹ thuật, giao nhiệm vụ đặc biệt và tuyên bố thành lập đơn vị có mật danh “MATH” - viết tắt từ “mã thám”, tức trinh sát mã điện. Tại đây, đồng chí Bộ trưởng căn dặn: “Hiện nay địch đang tìm mọi cách do thám, gây cơ sở phản động, thả biệt kích vào hậu phương của ta để phá hoại. Vì vậy, công tác dùng kỹ thuật vô tuyến điện để thu tin tức tình báo và chống gián điệp có tác dụng, giá trị rất lớn”.
Đơn vị MATH khi đó là một bộ phận trực thuộc Văn phòng Trung ương Đảng, do chính Bộ trưởng trực tiếp chỉ đạo. Trước nguy cơ chiến tranh leo thang từ phía Mỹ, ngày 11-5-1961, khi Tổng thống Mỹ chính thức “bật đèn xanh” cho “chiến dịch Chiến tranh bí mật” chống miền Bắc Việt Nam, ngay lập tức Bộ Công an đã nhanh chóng thành lập hệ thống đài thông tin vô tuyến đặt tại cơ quan bộ (số 15 Trần Bình Trọng, Hà Nội). Hệ thống này bao gồm: 1 máy phát công suất 1.000W, 2 máy phát công suất 200W, 11 máy thu đặt tại nhiều vị trí khác nhau trong trụ sở và cùng với đó là 2 bộ máy thu - phát GRC-9 phục vụ nhiệm vụ đột xuất. Đặc biệt, tổ Teletyp - sử dụng thiết bị điện báo chuyên biệt để chuyển nhận tin nhắn văn bản, có nhiệm vụ kết nối với Đài Bưu điện Hà Nội, đảm bảo luồng thông tin liên tục giữa Trung ương và các ty công an tỉnh, thành phía Bắc. Trường hợp có điện tối mật hoặc hỏa tốc, thông tin sẽ được chuyển qua Văn phòng Trung ương Đảng để kịp thời chỉ đạo công an các địa phương.
Không chỉ là thông tin liên lạc đơn thuần, hệ thống điện đài và vô tuyến điện ấy chính là tai mắt của lực lượng phản gián kỹ thuật, giúp sớm phát hiện, đánh chặn các toán biệt kích, người nhái, gián điệp thâm nhập. Từ một tín hiệu lạ bị bắt được trên sóng, một giọng nói lẫn vào tạp âm, hay một đoạn mã ngắt quãng…, lực lượng kỹ thuật phản gián có thể lần ra cả đường dây gián điệp. Trong trận địa không tiếng súng ấy, mỗi người là một chiến sĩ. Mỗi bản tin thu được, mỗi tín hiệu giải mã thành công là thêm một phần thắng lợi thầm lặng nhưng vô giá.
Hai tay “tịch… tà…”, hai tai bắt sóng
Giữa căn phòng nhỏ ngập tiếng xung điện lách tách, những người lính phản gián điện đài kiên nhẫn ngồi bên máy, hai tay thoăn thoắt “tịch… tà…”, hai tai căng ra bắt sóng. Mỗi ca trực là một trận đấu trí thầm lặng, nơi từng giây, từng khắc đều có thể quyết định sự thành bại của cả chuyên án. Tại trung tâm phản gián điện đài, công việc được tổ chức thành 4 kíp - 3 ca, với 4 bộ phận: trung tâm phát hiện, tổ nghiên cứu, đội trinh sát kỹ thuật lưu động, và 5 trạm xác định vị trí. Ai vào việc nấy, không ai được rời vị trí nếu chưa có người thay, bởi nhiệm vụ trên vai họ đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối trong từng tích tắc.

Máy điện báo Morse là “vật bất ly thân” của chiến sĩ, gắn liền với âm thanh quen thuộc “tịch (hoặc tích)… tà…”. Đây là thiết bị truyền tải thông điệp được mã hóa qua các xung điện, chuyển thành dấu chấm và gạch ngang theo hệ thống mã morse. Trong đó, “tích” là tín hiệu ngắn (dấu chấm), “tà” là tín hiệu dài (dấu gạch ngang). Người điều khiển phải thật khéo léo ngắt và nối mạch điện để tạo ra các tín hiệu này, vừa đúng nhịp, vừa chính xác tuyệt đối. Với cán bộ, chiến sĩ điện đài khi ấy, tiếng “tịch… tà…” không chỉ là âm thanh truyền tin mà còn là “nhịp tim” của trận địa. Có khi, chỉ một tín hiệu kéo dài 2-3 giây đã là mấu chốt để định vị đối phương. Nếu chậm trễ hay sơ suất, tín hiệu sẽ mất, không thể xác định tọa độ.
Thượng tá Nguyễn Ngọc Trác, nguyên lãnh đạo Phòng A22 (nay là A06 - Cục Kỹ thuật nghiệp vụ, Bộ Công an), nhớ lại: “Thời điểm đó, anh em làm nhiệm vụ cực kỳ tập trung vì có những tín hiệu chỉ kéo dài 3-5 giây. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, phải báo từ bàn canh tới trạm định vị kịp thời. Các toán xâm nhập đường biển đầu tiên, như một toán ở Quảng Ninh, chúng ta đã phát hiện trung tâm chỉ huy của đối phương ở Manila (Philippines), trong đó có trạm phát một chiều. Ngay lập tức, trung tâm phát hiện của ta bố trí riêng một bàn canh 24/24, khi có tín hiệu lạ là theo dõi ngay. Đối với các toán đi bằng tàu biển, khoảng 30 phút mới có một tín hiệu, nhưng chúng lại đề cao bảo mật, thường chỉ phát một “tà” trong 2-3 giây. Trong khoảng thời gian ấy, các bộ phận của ta phải phối hợp thật nhịp nhàng để xác định được tọa độ”.
Giữa điều kiện thiết bị còn thiếu thốn, phương tiện thô sơ, sự mẫn cán và tài trí của những người lính phản gián điện đài chính là “công nghệ cao” nhất mà ta có được. “Vì tính chất công việc bắt buộc phải chính xác và bảo mật, năm đó tôi đi làm thì gia đình cũng chỉ biết là có công ăn việc làm vậy thôi, chứ hoàn toàn không biết tôi làm gì, ở đâu. Để hoàn thành công việc, các bộ phận kề vai sát cánh nhau trong từng giây, chiến sĩ làm nhiệm vụ có hai tai: một bên nhận lệnh từ Trung ương và phối hợp các bộ phận liên quan, bên còn lại bắt sóng tín hiệu đối phương để kịp báo về cho các khâu tiếp nối”, Thượng tá Nguyễn Ngọc Trác kể.
Và trong hành trình ấy, mỗi “tích” và “tà” không chỉ là tín hiệu điện tử, mà còn là lời cảnh báo, là mũi tên định hướng cho những bước chân trinh sát kỹ thuật trên khắp các ngả đường ra trận - nơi những cuộc “cân não” khác vẫn đang tiếp diễn.
Nhiễu sóng đối phương
Trong thế giới của làn sóng vô tuyến, không phải lúc nào cũng vang lên những tín hiệu rõ ràng. Có khi, đó là cuộc rượt đuổi âm thầm giữa tai nghe và bàn phím, giữa mưu trí của ta và thủ đoạn của đối phương. Chuyên án KS16 “Gió lốc”, là một trận đánh như thế. Ở đó, mỗi tín hiệu bắt được, mỗi khoảng nhiễu tạo ra đều trở thành “vũ khí mềm” để lực lượng phản gián điện đài kéo địch vào chiếc bẫy được giăng sẵn.
Ngày 16-5-1962, toán gián điệp biệt kích mang tên “Gió lốc” gồm 8 tên, trong đó có 2 tên truyền tin, đã sử dụng đài vô tuyến điện nhảy dù xuống Mộc Châu, Sơn La. Do biết trước và chủ động đối phó, ta đã bắt gọn toán này ngay khi chúng vừa chạm đất. Sau đó, ta mở tiếp chuyên án mang bí số KS16. Mấy ngày sau, đài vô tuyến điện của toán “Gió lốc” được ta cho hoạt động để bắt liên lạc với trung tâm chỉ huy địch. Khi trung tâm yêu cầu mật lệnh truyền tin phụ, ta hướng dẫn tên biệt kích kéo dài thời gian trả lời với lý do tín hiệu nhỏ, bị nhiễu, nghe không rõ. Qua đấu tranh, khai thác được tên truyền tin chính, ta biết mật khẩu phụ là: “Đôi giày của anh có mấy màu?”. Có mật khẩu này, tên truyền tin phụ đã trả lời đúng yêu cầu của trung tâm. Tin tưởng, địch biểu dương “thành tích” của toán “Gió lốc” và thưởng cho chúng huân chương “Bội tinh”.
Từ năm 1966-1968, bằng nghiệp vụ khéo léo, ta đã dựng nên hàng loạt tình huống giả gửi về trung tâm chỉ huy địch: khi thì báo toán đang sống trong rừng lâu ngày bị sốt rét ác tính; khi lại báo bị lũ cuốn trôi, hoặc chết vì đói rét. Những “kịch bản” ấy khiến hoạt động của “Gió lốc” dần teo tóp, và đến cuối năm 1968 thì chấm dứt hoàn toàn. Trong suốt quá trình đó, giữa núi rừng khắc nghiệt, trong điều kiện thiết bị hạn chế, các chiến sĩ phản gián điện đài vẫn kiên cường bám sóng, biến những đường tín hiệu thành vũ khí vô hình… Nhưng “Gió lốc” chỉ là một trong nhiều cơn gió ngược mà họ phải đối mặt. Phía trước, những tín hiệu lạ vẫn lẩn khuất giữa màn nhiễu, báo hiệu một trận đấu trí mới đang đến gần.