Mặt trận phản gián: Cuộc chiến cân não - Bài 3: Đánh đuổi biệt hải ở tọa độ lửa

Không thể đong đếm mỗi tấc đất ở tỉnh Quảng Bình trước đây (nay là tỉnh Quảng Trị) đã gánh chịu bao nhiêu bom đạn của đế quốc Mỹ những năm tháng chiến tranh. Cũng chính ở tọa độ lửa này, nhân dân cùng lực lượng an ninh đã đập tan âm mưu sử dụng biệt kích đường biển (biệt hải) phá hoại, hòng cắt đứt đường chi viện cho miền Nam ruột thịt.

Người anh hùng trưởng thành từ nhân dân

Tháng 8, Quảng Trị nắng như thiêu đốt. Đại tá - Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Tri Phương, nguyên Phó Giám đốc Công an tỉnh Quảng Bình, lần giở từng lớp ký ức của hơn nửa thế kỷ. Đó là những tháng ngày mưa bom bão đạn, khi Quảng Bình - dải đất dài và hẹp của khúc ruột miền Trung - trở thành mục tiêu phá hoại điên cuồng của đế quốc Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

U5a.jpg
Đại tá - Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Tri Phương lần giở từng lớp ký ức của hơn nửa thế kỷ. Ảnh: Giao Linh

Với vị trí chiến lược về an ninh - quốc phòng, điểm tập kết binh trạm giao liên, trạm đón tiếp quân sự, trạm trung chuyển cụm cảng, là đầu mối các tuyến giao thông chi viện vào Nam, Quảng Bình được ví như “cuống họng” của đất nước. Giai đoạn từ năm 1961 trở đi, Mỹ và chính quyền Sài Gòn ráo riết tung các toán biệt kích, gián điệp bằng đường bộ và đường hàng không, xâm nhập vùng rừng núi, khu vực hành lang đối diện biên giới Việt - Lào rồi lấn sâu dần vào nội địa Quảng Bình.

Trên tuyến biển, chúng bố trí các toán biệt hải, người nhái do CIA (Cục Tình báo Trung ương Mỹ) và hải quân Mỹ trực tiếp đào tạo, hòng phá hoại các công trình cầu, cảng, tàu hải quân. Xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trước đây (nay là xã Bắc Trạch, tỉnh Quảng Trị) trở thành mục tiêu bị bắn phá vì có nhiều vị trí quan trọng như Khe Nước, quân cảng, cảng Giang, bến phà Gianh…

Là công an xã Thanh Trạch, anh Nguyễn Tri Phương xác định rõ gián điệp, biệt kích không chỉ phá hoại cơ sở vật chất mà còn xâm nhập vào quần chúng để gây dựng cơ sở và móc nối. Anh không ngừng nhắc nhở bà con giữ tinh thần cảnh giác cao độ, bởi hàng ngàn đôi mắt của nhân dân sẽ là “rađa” phát hiện thù trong giặc ngoài. Cứ đêm xuống, anh lại cùng 3 dân quân đeo khẩu K54 đi tuần dọc mép cảng Gianh, nhìn chằm chằm ra phía biển.

Lợi dụng đêm tối không trăng, một tàu lớn chở theo toán biệt kích neo ngoài khơi. 4 tên di chuyển xuống thuyền cao su rồi lặng lẽ tiến vào bờ với mục tiêu sẽ phá cầu Khe Nước. Trong bóng tối, phát hiện có kẻ xâm nhập, Nguyễn Tri Phương hét lớn: “giơ tay lên”. Ngay lập tức, toán biệt kích bỏ chạy dưới sự truy đuổi của tổ tuần tra. Do ngoan cố chống cự, hai tên biệt kích bị tiêu diệt tại chỗ, hai tên khác men theo quốc lộ chạy về phía Đồng Hới thì bị người dân bắt sống.

Sau sự kiện vịnh Bắc Bộ (5-8-1964) đến đầu năm 1965, để bảo toàn lực lượng cho cuộc chiến đấu lâu dài, tàu hải quân của ta được lệnh sơ tán, trú ẩn trên thượng nguồn sông Gianh. Lúc này, chỉ còn lực lượng phòng không bảo vệ quân cảng và một bộ phận hải quân tại cầu Khe Nước. “Năm chiếc tàu của quân cảng sông Gianh được rừng cây rậm rạp ven sông chở che. Các chiến sĩ cùng dân quân thay lá ngụy trang hàng ngày, bảo vệ tuyệt đối. Tuy nhiên, sau nhiều ngày trinh sát thám thính, kẻ địch vẫn phát hiện”, Đại tá Nguyễn Tri Phương nhớ lại.

Ngày 28-4-1965, Mỹ và chính quyền Sài Gòn huy động 80 lượt máy bay, mỗi đợt từ 9 đến 20 chiếc, mang theo các loại vũ khí hiện đại như rốckét, 20 ly, bom napan, bom khoan… tấn công điên cuồng và phá hủy 5 tàu hải quân đang ẩn trú. Cùng với lực lượng hải quân, nhân dân và an ninh địa phương đã anh dũng chiến đấu trước hỏa lực kinh hoàng của đối phương, bắn cháy 5 máy bay và bị thương 4 chiếc khác. Nguyễn Tri Phương cùng đồng đội đã vượt qua mưa bom bão đạn, tiếp cận tàu để cứu thương binh trước khi tàu phát nổ và chìm xuống dòng sông Gianh. “Vóc người tôi nhỏ bé, nhưng bằng sức mạnh kỳ lạ nào đó vẫn vác từng thương binh lên vai rồi băng băng chạy ra xuồng nhỏ để đồng đội đưa vào bờ”, Đại tá Nguyễn Tri Phương nhớ lại.

Suốt giai đoạn từ 1961 đến 1970, Quảng Bình không chỉ chiến đấu với bom đạn của kẻ thù mà còn kiên cường trong cuộc chiến chống gián điệp biệt kích, bảo vệ vững chắc an ninh vùng biển. Riêng năm 1963, địch đã tung ra vùng đất này hơn 10 toán gián điệp biệt kích, quy mô từ 5-20 tên/toán, thường sử dụng các loại xuồng máy tốc độ cao từ 50-80km/giờ để chở biệt kích xâm nhập.

Tuy nhiên, tất cả các phi vụ đều bị nhân dân và lực lượng an ninh Quảng Bình phát hiện, đánh bại. Một dấu mốc không thể quên trong mặt trận đặc biệt này là đêm 29 rạng sáng 30-6-1962. Xuất phát từ căn cứ hải quân Mỹ Khê (Đà Nẵng), một toán biệt kích vượt giới tuyến xâm nhập hải phận Quảng Bình. Khi vào đến cửa Gianh, chúng cho tàu neo lại rồi dùng xuồng cao su chở 3 người nhái tiếp cận căn cứ hải quân của ta. Người nhái gắn mìn vào tàu, phát nổ, đồng thời cũng khiến hắn bị thương nặng. Lực lượng hải quân, công an vũ trang cùng nhân dân lập tức truy đuổi nhóm người nhái. Đến vùng biển gần vĩ tuyến 17, ta phát hiện tàu của địch và bắt sống 11 tên biệt kích.

Từ kết quả này, Bộ Công an đã cử cán bộ phối hợp Công an tỉnh Quảng Bình khai thác, thu được những tin tức quan trọng về căn cứ người nhái của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, cách thức tổ chức hoạt động cũng như kế hoạch tung các toán biệt kích ra miền Bắc bằng đường biển. Ngày 21-7-1962, toán biệt hải này bị đưa ra xét xử công khai. Giáo sư Vũ Đình Hiếu, một cựu biệt kích của Việt Nam Cộng hòa, nhận định về sự kiện trên: “Thất bại này khiến cho CIA mất mặt”.

Sức mạnh lòng dân

Các cuộc bắn phá tấn công từ tứ phía với những thủ đoạn và phương thức khác nhau của Mỹ và chính quyền Sài Gòn không làm nhân dân Quảng Bình nao núng. Nhiều toán biệt kích chưa kịp vào bờ, thấy bóng người dân và công an chờ sẵn đành vội vàng quay đầu bỏ chạy. Nhiều trường hợp lẩn trốn và sống trong đói khát, được nhân dân cho ăn uống trước khi giao cho lực lượng công an. Song song với việc tung biệt hải phá hoại, Mỹ và chính quyền Sài Gòn còn tổ chức các cuộc bao vây, bắt cóc ngư dân trên biển nhằm moi thông tin, khống chế và mua chuộc thực hiện nhiệm vụ gián điệp hoặc tổ chức phản động trá hình. Nhiều ngư dân lập tức trình báo với công an địa phương ngay khi về bờ, từ đó ta nắm tình hình, dàn trận để “câu nhử” bắt gọn nhiều gián điệp, ngăn chặn âm mưu thâm độc.

Kinh qua nhiều vị trí từ công an viên, trưởng công an xã và sau này là Phó Giám đốc Công an tỉnh Quảng Bình, Đại tá Nguyễn Tri Phương thấu hiểu sâu sắc sức mạnh lòng dân trong cuộc chiến chống gián điệp, biệt kích cũng như suốt chiều dài cuộc kháng chiến cứu nước. “Tinh thần cảnh giác của nhân dân và công an xã là chìa khóa cốt lõi để bảo mật phòng gian, giữ sự ổn định từ bên trong, ngăn chặn phá hoại. Phong trào nhân dân bảo vệ trị an, sau này là phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, đã phát huy sức mạnh nội tại của nhân dân ta, góp phần đưa đến chiến thắng cuối cùng của dân tộc”, Đại tá Nguyễn Tri Phương xúc động chia sẻ. Ông khẳng định, dù thời chiến hay thời bình, sức mạnh trong nhân dân có ý nghĩa to lớn giúp giữ vững ổn định chính trị, xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế, chống các thế lực phản động và thù địch trong thời đại mới.

Thiếu tướng Nguyễn Hữu Hợp, nguyên Giám đốc Công an tỉnh Quảng Bình, hiện là Giám đốc Công an TP Đà Nẵng, nhận định, trong mặt trận phòng ngừa, đấu tranh, truy bắt gián điệp biệt kích, mỗi người dân là một chiến sĩ xung kích, mỗi làng xã là một chiến lũy vững chắc. Đây là cuộc đấu tranh huy động tổng hợp sức mạnh chiến đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó Công an nhân dân là lực lượng tham mưu, nòng cốt hàng đầu.

Trong những năm tháng chống đế quốc Mỹ, 17 toán gián điệp, biệt kích xâm nhập bằng đường hàng không và đường biển đã bị lực lượng Công an Quảng Bình bắt giữ. Các toán này đều có quy mô lớn, phương thức thủ đoạn bí mật, liều lĩnh và ngoan cố. Với nghiệp vụ “câu nhử”, ta dụ đối phương tiếp tế lương thực, vũ khí, hàng hóa để đón lõng, bắt gọn các toán gián điệp, biệt kích mới. Trường kỳ 10 năm, an ninh vùng biển ở tọa độ lửa luôn vững vàng trước hàng loạt kế hoạch phá hoại của CIA và chính quyền Sài Gòn, góp phần bảo toàn con đường huyết mạch chi viện cho miền Nam ruột thịt.

Dựa trên tài liệu CIA được giải mật, cựu biệt kích Việt Nam Cộng hòa Vũ Đình Hiếu cho rằng, từ đầu năm 1961, CIA đã điều khiển những trận tấn công bất ngờ nhằm phá hoại các căn cứ quân sự dọc theo bờ biển Bắc Việt Nam, do những toán biệt hải đảm nhiệm. Người chịu trách nhiệm cho kế hoạch này là Tucker Gougelman, một chuyên gia hàng đầu về phá hoại trên biển của CIA.

Thời gian đầu, kế hoạch hành quân biển của CIA diễn ra rất âm thầm để tránh đụng độ với Hải quân của ta. Thế nhưng đến 1962, Mỹ bắt đầu phá hoại dữ dội. Các toán biệt hải này được nâng cấp trang bị, từ thuyền máy loại cũ kỹ dần nâng cấp lên tàu Torpedo có trang bị đại bác 40 ly và 20 ly. Đến năm 1962, CIA đưa những chiếc tàu Nasty hiện đại để xâm nhập hải phận Bắc bộ. Biệt hải được đơn vị SEAL huấn luyện về chiến thuật hành quân phá hoại trên biển.

Với phạm vi hoạt động từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 21, các toán biệt hải này được giao nhiệm vụ: ngăn chặn và bắt cóc, thẩm vấn, phá hủy tất cả các loại tàu vũ trang tiếp vận của miền Bắc, phá hoại đường tiếp tế trên biển của miền Bắc, bắn phá các mục tiêu dọc theo bờ biển, tập kích lên bờ tấn công các căn cứ quân dân sự; thả biệt kích điệp viên xâm nhập miền Bắc… Tất cả các cuộc hành quân biệt kích biển đều do biệt kích và người nhái của Việt Nam Cộng hòa thực hiện.

Tin cùng chuyên mục