Thơ có ích gì không?
Thơ là sứ giả của văn hóa ngoại giao đấy chứ?
Tháng 11-2000, Bill Clinton - Tổng thống đầu tiên của Mỹ thăm Việt Nam sau 25 năm chiến tranh kết thúc, ông “lẩy Kiều” :
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đó là hai câu 1795-1796 khắc họa tâm trạng của Thúc Sinh. Sau khi đã dan díu với Kiều, chàng về thăm vợ rồi “Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ”, thật ra là nhớ Thúy Kiều. Nhớ mà cứ bó chân một chỗ, làm sao chịu nổi? Bèn tìm cách rời khỏi nhà. Hoạn Thư thừa biết nhưng cao cơ hơn nhiều, bảo Thúc Sinh hãy về thăm cha, dù biết tỏng chồng mình đang muốn gì, sẽ đi đâu. Khi Thúc Sinh rời khỏi nhà, Hoạn Thư cũng về thăm mẹ và kể hết mọi chuyện đã nghe thiên hạ đồn đãi. Lập tức một kế hoạch hoàn hảo “chước rất mầu” được thi hành: sai bọn Khuyển Ưng đốt nhà, bắt cóc Kiều rồi ném vào đó thây ma chết đuối, tạo nên hiện trường giả là Kiều đã bị chết cháy. Quả nhiên, khi đến nơi, Thúc Sinh tưởng thật. Đi coi bói một quẻ xem sao. Gã thầy bói phán rằng Kiều chưa chết, hai người sẽ chạm mặt nhưng “Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay”. Quả nhiên đúng y như thế. Đó là chuyện về sau. Còn bây giờ, lúc này:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Tìm đâu cho thấy cố nhân
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương
Tội nghiệp Thúc Sinh, chàng dưới cơ Hoạn Thư xa lắc xa lơ.
Rồi mới đây, tại cuộc chiêu đãi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đã dẫn câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du để nói về quan hệ Mỹ - Việt Nam:
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Trong Truyện Kiều, có lẽ hai câu thơ này lấp lánh ánh sáng reo vui vào bậc nhất trong chuỗi 3.254 câu lục bát dằng dặc đoạn trường “vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh”. Đọc Kiều, những người khóc thương cho số phận 15 năm phiêu bạt giang hồ của Kiều ắt phải òa khóc lên vì sung sướng, vì sự “có hậu” ở trần gian bể khổ này:
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Mấy hôm nay, những người mê Kiều chộn rộn, ồn ào phản ứng tập sách Truyện Kiều (NXB Trẻ) - ấn bản kỷ niệm 250 năm Ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du do Hội Kiều học Việt Nam hiệu khảo, chú giải. Phản ứng vì có những chú giải sai về điển tích, điển cố. Người phát hiện trước nhất là PGS Đoàn Lê Giang, Trưởng khoa Văn học và Ngôn ngữ, Đại học KHXH-NV TPHCM. Trên trang facebook của anh cho biết, ở trang 29 phần chú thích câu thơ: “Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi” có ghi: “Ca nhi: Tống thư có câu “ca nhi, vũ nữ” (con trai hát, con gái múa)”. Nếu “ca nhi” là “con trai hát” thì tình trạng giới tính “xưa là ca nhi” của Đạm Tiên là... con trai, hẳn đã “chuyển giới” cho “nàng ấy”! Ông Nguyễn Khắc Bảo, Phó Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam, một trong 8 nhà nghiên cứu tham gia biên soạn cuốn Truyện Kiều lý giải sự cố này xảy ra là do đánh máy thừa một chữ: Lẽ ra chú thích chính xác là: “ca nhi, vũ nữ” (con hát, con gái múa) thì in sai thành: “ca nhi, vũ nữ” (con trai hát, con gái múa).
Sự việc này không có gì ầm ĩ. Đã sai thì sửa. Nhưng có một vài người, nhân sự vụ này “dấn” thêm một bước nữa là chê trách các câu trong bản Truyện Kiều của Hội Kiều học Việt Nam không giống như những câu mình đã đọc, đã nhớ. Nói như thế, đòi hỏi như thế là vô lý. Như ta đã biết, các văn bản Truyện Kiều thông dụng nhất hiện nay là những bản do các tác giả Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Thạch Giang, Đào Duy Anh... biên soạn; ngoài ra còn có thể kể thêm các bản Kiều của Kiều Mậu Oánh, Liễu Vân Đường, Quang Văn Đường, Duy Minh Thị, Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Đắc Hàm, Trương Vĩnh Ký, Tản Đà, Phạm Kim Chi, Văn Hòe, Nguyễn Quảng Tuân...
Các học giả này dựa trên các bản Kiều chữ Nôm mà mình có để phiên âm, tất nhiên, phiên âm theo sở học mà họ cho là đúng nhất, vì thế, khó có thể có sự trùng nhất của 3.254 câu Kiều giữa các bản. Mà cũng khó có thể đi đến việc xây dựng nguyên bản Truyện Kiều của Nguyễn Du như các học giả Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Tài Cẩn… đã đặt ra từ lâu. Vậy trường hợp bản Truyện Kiều do Hội Kiều học Việt Nam khi hiệu khảo, chú giải thì họ dựa trên bản Kiều nào? Và khi chọn từ đó, câu đó, họ lập luận thế nào, cho biết vì sao đã chọn, thêm một nguyên tắc khoa học là họ phải trưng ra các dị bản để bạn đọc so sánh.
Bên cạnh đó, ta phải thừa nhận một sự thật là có những câu Kiều chắc chắn khác với nguyên bản của Nguyễn Du. Ấy là do người đọc tự sửa tùy theo cảm xúc, nhận thức, học thức… của mình (xin nhấn mạnh điều này), ví dụ: “Tiếc thay một đóa trà mi”: “Trong tiếng Hán chỉ có danh từ đồ mi chứ không có trà mi. Vì chữ đồ và chữ trà chỉ khác nhau một nét (chữ trước có một nét ngang nhỏ trên chữ mộc mà chữ sau không có nên người ta dễ nhầm chữ này thành chữ kia. Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh (Hà Nội, 1974) ghi nhận hai hình thức đồ mi lẫn trà mi nhưng mặc nhận rằng đồ mi mới là hình thức gốc và chính xác” (An Chi - Chuyện Đông chuyện Tây, NXB Trẻ 2005- tập 2). Học vấn uyên bác cỡ Nguyễn Du thừa sức biết điều đó, nhưng rồi hiện nay trong các bản đã phổ biến, trong trí nhớ người thưởng ngoạn vẫn là “Tiếc thay một đóa trà mi”. Thế thì, ta chọn thế nào? Chỉ nêu một trong rất nhiều ví dụ khác nữa.
Mới đọc một đôi câu không “thuận tai” như đã nhớ, đã đọc, đã thuộc, nhiều người đã la toáng lên như cháy nhà đến nơi. Sự lo lắng thái quá ấy cũng có thể do tâm lý “té nước theo mưa” đã khiến nhiều người nhầm tưởng bản Kiều do Hội Kiều học Việt Nam biên soạn chẳng giá trị gì, khi đọc “khiến phải mắc cười”. Sổ toẹt như thế, nghe sao được!
Lê Minh Quốc