Buổi chiếu nằm trong khuôn khổ chương trình phim chọn lọc hàng tháng của IDECAF, mỗi tháng sẽ có một bộ phim Việt Nam được đánh giá tốt về chất lượng nội dung, nghệ thuật và một số phim của Pháp, Đức được chọn chiếu.
Thông thường các buổi chiếu rơi vào tối thứ ba và chiều thứ bảy hàng tuần. Giá vé cũng chỉ có 15.000 đồng/vé. “Trái tim bé bỏng” được xếp vào chương trình phim tháng 7, với 2 buổi chiếu. Thứ bảy 4-7 là buổi chiếu thứ 2 của bộ phim. Lượng khán giả đến xem phim không nhiều song cũng không ít. Vài chục người chưa đủ làm kín khán phòng IDECAF, nhưng cũng đủ làm nên một không gian ấm cúng dành cho những ai yêu quý, trân trọng những thước phim nghệ thuật của Việt Nam.
“Trái tim bé bỏng” là bộ phim của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân, được trao nhiều giải thưởng lớn tại Liên hoan phim Việt Nam năm 2007. Bộ phim thấm đẫm giá trị nhân văn, đặt ra những vấn đề nhức nhối đối với xã hội, khiến người xem cảm thấy nhói lòng, day dứt về số phận của những người dân nghèo, ở những nơi mà điều kiện sống khắc nghiệt, trình độ dân trí thấp. Nơi đó, những ước mơ dù bé nhỏ nhất là kiếm đủ tiền để sống một cuộc sống giản dị bên gia đình, người thân cũng khó đạt được.
Mai, cô bé 17 tuổi, sống cuộc sống lam lũ bên cạnh người cha vô trách nhiệm, phản bội vợ con; người mẹ thương con nhưng bất lực vì cuộc sống quá nghèo khổ và phải tìm quên trong men rượu; những đứa em nhỏ đen đúa, gầy gò luôn thèm khát những que kem không bao giờ nguyên vẹn vì phải đi rất xa mới có thể mua được. Gia đình cô bé sống ở vùng cát trắng Quảng Bình.
Chứng kiến cảnh gia đình như vậy Mai đã dứt áo ra đi theo lời hứa hẹn của một người phụ nữ cùng quê, vào Sài Gòn học may để kiếm tiền phụ cha mẹ lo cho gia đình. Cô bé không ngờ địa chỉ học may của cô ở Sài Gòn lại là một nhà chứa. Cô bé bị vỗ béo để bán trinh và sau đó phải làm gái để “trả nợ” tiền ăn ở, đi lại…
Câu chuyện mà đạo diễn Nguyễn Thanh Vân kể không mới. Đó là câu chuyện mà thỉnh thoảng khán giả lại bắt gặp trên những trang báo, viết về những số phận bị lừa đảo, bị xô đẩy vào chốn nhơ nhuốc chỉ vì cái nghèo. Tuy nhiên, điều khiến cho bộ phim hấp dẫn chính là cách kể của đạo diễn. Người xem cảm thấy hồi hộp, lo sợ khi chứng kiến cảnh Mai phát hiện ra mình bị lừa, cô lập mưu trốn khỏi nhà chứa. Cái cảm giác lo lắng Mai bị bắt lại là một cảm giác rất thực, rồi đoạn em gái Mai cũng mơ ước được như chị mình (đi làm mua ti vi gửi về, gửi tiền về cho mẹ) không khỏi khiến người xem chạnh lòng xót xa.
Những hình ảnh đan xen nhau giữa Mai và em gái: Mai quay về nhà với căn bệnh thế kỷ, em Mai tiếp tục đi theo vết xe đổ của chị. Khán giả cảm giác được sự ngột ngạt của tình huống trớ trêu.
Một cảm giác hy vọng, mong chờ ở điểm giao nhau của hai chị em trên con đường đi - về, hay điểm giao nhau giữa sự sống – cái chết… Đạo diễn dừng bộ phim ở giao điểm ấy với một cái kết mở, xoáy vào lòng người xem…
Một bộ phim như vậy nhưng đáng tiếc là cơ hội đến với khán giả quá ít. Phim hoàn thành và giành được giải thưởng cao nhất tại LHP VN năm 2007, nhưng mãi đến tháng 3-2008, mới được Hội Điện ảnh tổ chức chiếu miễn phí nhân đợt chiếu những bộ phim tham gia giải Cánh diều vàng 2007. Và lần này là lần hiếm hoi thứ hai phim được ra mắt khán giả với chỉ 2 buổi chiếu duy nhất tại IDECAF.
Dù biết, bộ phim nằm trong vòng xoáy chung của những bộ phim nghệ thuật đến với khán giả bằng khe cửa hẹp, song xem xong phim lại không khỏi chạnh lòng. Bằng cách này hay cách khác, hãy để những bộ phim như “Trái tim bé bỏng” được đến với khán giả, nhất là những khán giả nghèo, ở những vùng đất khó khăn, khắc nghiệt. Biết đâu, nhờ thế mà có thể hạn chế được một hay những số phận đáng thương vẫn còn khá nhiều trong xã hội không bị rơi vào cảnh tận cùng sự khổ nhục như số phận của nhân vật trong bộ phim.
HÀ GIANG