
Nhiều hình thức tuyên truyền
Công tác phổ biến, triển khai học tập, quán triệt, các nội dung của Nghị quyết số 01-NQ/TU đã được các cấp lãnh đạo quan tâm và tổ chức thực hiện với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Đối tượng tuyên truyền, phổ biến không chỉ giới hạn trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức mà còn hướng đến các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước liên quan đến ứng dụng và phát triển CNTT. Trong đó, việc lồng ghép nội dung ứng dụng, phát triển CNTT là yêu cầu bắt buộc trong từng quy hoạch, kế hoạch, từng đề án, từng dự án của mỗi ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị. Người đứng đầu các cấp, các ngành phải chịu trách nhiệm chỉ đạo công tác ứng dụng và phát triển CNTT bằng các biện pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao năng suất lao động, hiệu quả hoạt động của ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan đơn vị được giao phụ trách.
Bên cạnh đó, để xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số và xã hội số, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, UBND tỉnh Bến Tre đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, kế hoạch và văn bản chỉ đạo về lĩnh vực CNTT và chuyển đổi số. Các cấp ủy Đảng, chính quyền thường xuyên quan tâm đến công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ số trong đời sống, sản xuất, thương mại và thực thi công vụ, thường xuyên thực hiện thông qua hệ thống loa truyền thanh các huyện, thành phố, cổng thông tin điện tử, Fanpage, các nhóm Zalo để người dân biết và tích cực hưởng ứng các hoạt động chuyển đổi số của địa phương. Hàng năm, để hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số Quốc gia, Ngày Chuyển đổi số tỉnh (ngày 10-10), Ban cán sự Đảng UBND tỉnh quan tâm và chỉ đạo các ngành, các cấp phối hợp tổ chức các hoạt động, sự kiện thiết thực như: tổ chức mít tinh; lễ phát động, tuyên truyền, ra quân phổ biến, hỗ trợ người dân sử dụng các sản phẩm dịch vụ số; tổ chức các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu kiến thức về chuyển đổi số; đồng thời phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên các cấp trong công tác tuyên truyền đến người dân về chủ trương, chính sách liên quan đến chuyển đổi số của tỉnh. Ngoài ra, nhằm đảm bảo nguyên tắc tính trung thực, công khai khách quan, nguồn tin có độ tin cậy và chính xác, UBND tỉnh Bến Tre ban hành bộ chỉ số đánh giá chuyển đổi số tỉnh Bến Tre, bộ chỉ tiêu tổng hợp báo cáo định kỳ và báo cáo thống kê về kinh tế - xã hội phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Tỉnh ủy, UBND tỉnh. Đồng thời, để hỗ trợ thực hiện chuyển đổi số giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực và lợi thế cạnh tranh, tạo ra các giá trị mới cho doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết quy định một số chính sách đặc thù khuyến khích, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre như: chữ ký số, hóa đơn điện tử, hỗ trợ đăng thông tin tuyển dụng lao động lĩnh vực lập trình, công nghệ số cho doanh nghiệp chuyển đổi từ hộ kinh doanh; hỗ trợ chi phí thuê xây dựng và quảng bá tài liệu số cho doanh nghiệp thuộc nhóm dẫn đầu.

3 trụ cột chính chuyển đổi số đạt nhiều kết quả nổi bật
Về chính quyền số, đã từng bước được phát triển và hình thành dựa trên quá trình xây dựng và phát triển chính quyền điện tử, các chỉ tiêu về chính quyền số cơ bản hoàn thành so với chỉ tiêu của nghị quyết đề ra. 100% cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện; 91,5% cán bộ cấp xã đã được trang bị máy tính kết nối mạng nội bộ và mạng internet băng rộng; mạng truyền số liệu chuyên dùng các cơ quan Đảng, Nhà nước được triển khai kết nối, sử dụng tại các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố và đến cấp xã; hệ thống hội nghị truyền hình tỉnh cũng được triển khai tương đối đồng bộ từ tỉnh đến xã, đảm bảo khả năng kết nối thông suốt đến tất cả các điểm cầu khi triển khai vận hành trong các cuộc họp trực tuyến. Tỉnh đã đầu tư xây dựng hạ tầng CNTT phát triển chính quyền điện tử tỉnh Bến Tre, đã trang bị nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu của tỉnh Bến Tre; hệ thống quản lý văn bản và điều hành, hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính, hệ thống hộp thư công vụ tỉnh.
Triển khai Trung tâm điều hành thông minh tỉnh phục vụ chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo trên cả 2 phương tiện web và thiết bị di động gồm 10 lĩnh vực với hơn 1.000 chỉ tiêu giám sát. Điển hình, UBND huyện Châu Thành đã đưa vào vận hành chính thức Trung tâm điều hành thông minh huyện từ cuối năm 2023, tích hợp 11 lĩnh vực với hơn 400 chỉ tiêu, 2 phần mềm du lịch và nông nghiệp của huyện đang triển khai. UBND huyện Mỏ Cày Bắc triển khai Trung tâm điều hành thông minh huyện từ tháng 6-2024, đã tích hợp 10 lĩnh vực với hơn 200 chỉ tiêu giám sát. Huyện Giồng Trôm đã tích hợp 10 lĩnh vực với hơn 200 chỉ tiêu giám sát… 100% thủ tục hành chính (đủ điều kiện) thuộc thẩm quyền giải quyết cấp tỉnh, huyện, xã đã được cung cấp thành dịch vụ công trực tuyến trên hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh (https:// dichvucong.bentre.gov.vn) và tích hợp vào Cổng dịch vụ công quốc gia.
Về phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, theo báo cáo của Tổng Cục thống kê, tỷ trọng kinh tế số trên GRDP Bến Tre năm 2023 đạt 6,60%, xếp hạng thứ 53/63 tỉnh, thành phố; năm 2024 đạt 7,63%, xếp hạng thứ 27/63 tỉnh, thành phố (trong khi đó, năm 2020 chỉ đạt 6,31%). Sở Công thương đã chủ trì triển khai chương trình hỗ trợ chuyển đổi số 1.000 doanh nghiệp. Đến nay, toàn tỉnh có 55 doanh nghiệp CNTT đang hoạt động trên tổng số gần 3.700 doanh nghiệp; 100% doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số; 100% doanh nghiệp nộp thuế điện tử, sử dụng hóa đơn điện tử và chữ ký số; 100% doanh nghiệp nộp thuế điện tử và sử dụng chữ ký số, 10% sử dụng hóa đơn điện tử; số lượng doanh nghiệp có website sử dụng tên miền “.vn” là 2.550 (đạt 70%). Kinh tế - xã hội 3 tháng đầu năm 2025 của tỉnh ước tính GRDP tỉnh là 6,28%. Hầu hết các sản phẩm đặc trưng của tỉnh đều được đưa lên sàn thương mại điện tử; sàn thương mại điện tử Đặc sản Bến Tre cũng được nâng cấp, vận hành với gần 73 gian hàng và 240 sản phẩm đặc sản, sản phẩm chủ lực, sản phẩm đạt chứng nhận OCOP. 100% sản phẩm OCOP được xúc tiến quảng bá thương hiệu nền tảng thương mại điện tử; trên 15% các sản phẩm chủ lực của các xã nông thôn mới nâng cao được kinh doanh qua kênh thương mại điện tử. Về phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số thì trên địa bàn tỉnh đã được đầu tư hiện đại hóa, đảm bảo thông tin liên lạc trong và ngoài tỉnh, cung cấp các dịch vụ với chi phí phù hợp và độ tin cậy cao; 100% xã, phường, thị trấn có Bưu điện khu vực hoặc Bưu điện văn hóa xã và có thư báo đến trong ngày. Toàn tỉnh có 14 đơn vị cung ứng dịch vụ bưu chính, chuyển phát; 203 điểm phục vụ bưu chính, tăng 36 điểm so với năm 2020, trong đó có 56 bưu cục, 123 bưu điện văn hóa; 12 đại lý bưu điện, 12 chi nhánh, văn phòng đại diện, bưu cục của các doanh nghiệp bưu chính, chuyển phát. Trên địa bàn tỉnh có 7 doanh nghiệp viễn thông đang hoạt động cung cấp dịch vụ viễn thông.

Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bến Tre Hồ Thị Hoàng Yến cho biết, sau gần 5 năm triển khai Nghị quyết số 01-NQ/TU, công tác phát triển và ứng dụng CNTT trên địa bàn tỉnh đã có những tiến bộ rõ rệt, đóng góp bước đầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cải cách hành chính, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả phục vụ của các ngành và các lĩnh vực, nâng cao năng lực cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp. Từng bước đổi mới, kiện toàn hệ thống chỉ đạo ứng dụng CNTT từ cấp tỉnh đến cấp xã. Các cơ quan, đơn vị, địa phương xác định rõ trách nhiệm của mình trong thực hiện việc đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT góp phần xây dựng thành công Chính quyền điện tử tỉnh. Nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân về vai trò, tầm quan trọng của CNTT có chuyển biến theo chiều hướng tốt hơn. Về cơ sở hạ tầng CNTT được đầu tư cơ bản. Ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý nhà nước ngày càng hiệu quả. Cán bộ, công chức, viên chức được tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng ứng dụng CNTT phục vụ tốt công việc chuyên môn.