Bài học sau những lần “nhập và tách”

Nửa thế kỷ qua, giáo dục đại học Việt Nam đã trải qua nhiều lần sắp xếp, nhập rồi lại tách. Câu hỏi đặt ra: làm thế nào để lần sắp xếp này tránh lặp lại vòng luẩn quẩn của quá khứ? Để trả lời, cần nhìn lại lịch sử, chỉ ra những hạn chế, nhận diện các điểm tích cực rồi rút ra những bài học cốt lõi cho hiện tại.

Tác động tích cực và cả... tiêu cực

Ngay sau năm 1975, các viện đại học miền Nam được sáp nhập hoặc tái tổ chức như: Viện Đại học Sài Gòn hợp nhất 11 trường thành 8 trường; Đại học Cần Thơ, Đại học Đà Lạt được tiếp quản và đổi mô hình. Mục tiêu là tập trung quản lý, đồng bộ hóa chương trình theo hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng, sự sáp nhập hành chính này khiến nhiều thương hiệu học thuật trước đó biến mất, tính đa dạng bị thu hẹp.

F4d.jpg
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch - cơ sở 2 được xây dựng tại Cụm y tế Tân Kiên, với tổng mức đầu tư hơn 2.400 tỷ đồng từ ngân sách TPHCM

Đến 1993-1995, Chính phủ ban hành Nghị định thành lập 2 ĐHQG (ĐHQG Hà Nội và ĐHQG TPHCM) và 3 đại học vùng (Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng). Đây là bước đi chiến lược, nhằm tạo ra các trung tâm đào tạo - nghiên cứu đa lĩnh vực, tiệm cận mô hình đại học lớn trên thế giới.

Tuy nhiên, do lo ngại mất tự chủ, các trường thành viên được giữ lại tương đối độc lập, hình thành mô hình “2 cấp” cồng kềnh, liên kết học thuật lỏng lẻo. Chỉ vài năm sau, giai đoạn 1999-2000, hàng loạt trường đã tách khỏi ĐHQG TPHCM.

Đến năm 2010, xu hướng sáp nhập quay trở lại nhưng với mục tiêu khác, đó là nhiều trường đại học, cao đẳng sư phạm hoặc cao đẳng địa phương yếu kém được nhập vào đại học vùng hoặc chuyển thành khoa trong trường đa lĩnh vực. Nhờ vậy giảm manh mún và lãng phí, nhưng đồng thời cũng gây lo ngại về thương hiệu, vị trí giảng viên và quyền lợi người học.

Lịch sử nhập-tách cho thấy nhiều vấn đề cần được nhìn nhận thẳng thắn. Thứ nhất, nhiều quyết định được đưa ra mang tính hành chính, cơ học, không tạo ra sức mạnh mới. Thứ hai, mô hình quản trị chưa hiệu quả, điển hình là các đại học “2 cấp” với bộ máy lãnh đạo chung nhưng các trường thành viên vẫn giữ quyền tự chủ lớn, mạnh ai nấy làm, thiếu gắn kết.

Thứ ba, một số trường bị ảnh hưởng danh tiếng khi chuyển từ đại học độc lập trở thành khoa hay đơn vị thành viên, gây tâm lý phản kháng và giảm động lực. Thứ tư, sinh viên thường chịu tác động nhiều nhất trong giai đoạn chuyển tiếp: lo lắng về giá trị tấm bằng, bất an vì thay đổi chương trình và dịch vụ học tập...

Bên cạnh hạn chế, quá trình nhập-tách cũng đem lại những mặt tích cực. Các đợt sáp nhập đã hình thành những trung tâm đào tạo lớn như 2 ĐHQG, 3 đại học vùng, góp phần nâng cao vị thế của giáo dục đại học Việt Nam.

Việc hợp nhất giúp tránh trùng lặp ngành đào tạo, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực, đặc biệt là cơ sở vật chất nghiên cứu. Đáng chú ý, khi tách ra, nhiều trường có điều kiện phát triển mạnh theo thế mạnh riêng.

Bài học cốt lõi cho triển khai Nghị quyết 71

Để Nghị quyết 71 trở thành cú hích thực sự cho giáo dục đại học, cuộc đại sắp xếp lần này phải được thiết kế trên nguyên tắc đồng bộ, gắn kết cả 5 yếu tố: con người, tài chính, cơ sở vật chất, mô hình tổ chức và năng lực quản trị. Nếu một mắt xích yếu sẽ kéo lùi toàn bộ tiến trình, do đó cần nhìn nhận hệ thống đại học như một chỉnh thể.

Trước tiên, Nhà nước dành ưu tiên đầu tư trọng điểm vào hạ tầng chung dùng cho nhiều trường như các phòng thí nghiệm liên ngành, trung tâm dữ liệu lớn, thư viện số, siêu máy tính. Đây sẽ là nền tảng để các trường sau sắp xếp cùng khai thác, tránh trùng lặp và tăng hiệu quả sử dụng ngân sách.

Về tài chính, đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách từ chia đều sang cơ chế đặt hàng theo nhu cầu nhân lực và kết quả nghiên cứu. Mô hình quản trị sau sắp xếp phải theo đúng tinh thần Nghị quyết 71, thay thế cơ chế Hội đồng trường bằng một cơ chế điều hành - quản trị thống nhất, rõ trách nhiệm và có thực quyền.

Năng lực quản trị cần được nâng cao với cơ chế hội đồng trường hoặc điều hành có thực quyền, minh bạch, chịu trách nhiệm giải trình. Song song đó, công tác truyền thông phải minh bạch, công khai lộ trình, lợi ích và rủi ro, để giảng viên, sinh viên hiểu rõ và đồng thuận.

Nguyên tắc xuyên suốt là mọi sắp xếp phải bám sát quy hoạch nhân lực quốc gia và địa phương. Đồng thời, việc sắp xếp phải đi cùng tầm nhìn phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, biến các trường đại học thành hạt nhân nghiên cứu ứng dụng thay vì dừng ở đào tạo bằng cấp.

Cần có cơ chế phối hợp hài hòa giữa đại học công và tư: đại học công giữ vai trò nòng cốt, còn đại học tư nhân phát huy sự linh hoạt và huy động nguồn lực xã hội. Khi bổ sung và tương hỗ, hai khu vực sẽ hình thành một hệ sinh thái giáo dục đại học đa dạng nhưng thống nhất, đủ sức đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Với Nghị quyết 71, Đảng đã trao cho ngành GD-ĐT một cơ hội vàng để tổ chức lại hệ thống. Thành công sẽ đến nếu “đại sắp xếp” được tiến hành trên nền tảng khoa học, nhân văn và hội nhập, bảo toàn danh tiếng và uy tín, đồng thời gắn chặt với quy hoạch nhân lực và tầm nhìn khoa học - công nghệ của quốc gia.

Tin cùng chuyên mục