Cánh đồng rau muống nước VietGAP: Đầu ra, yếu tố quyết định

Sau tai tiếng “con sâu làm sầu nồi canh” giữa năm 2016, ngành nông nghiệp TPHCM yêu cầu kiểm soát, tổ chức lại tất cả các vùng sản xuất rau muống nước (RMN) ở ngoại thành và quận ven.
Trồng RMN của HTX Thỏ Việt tại huyện Củ Chi. Ảnh: ĐĂNG THƯ
Trồng RMN của HTX Thỏ Việt tại huyện Củ Chi. Ảnh: ĐĂNG THƯ
12 hộ bỏ VietGAP vì giá thấp  
Theo Chi cục Bảo vệ thực vật (BVTV) TP, qua việc rà soát của các huyện và quận ven sản xuất RMN, hiện có 8 xã và phường trồng loại rau này với tổng diện tích 577ha. Trong đó, huyện Củ Chi có xã Bình Mỹ là nơi tập trung sản xuất RMN nhiều nhất với 260ha.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TPHCM cho biết đã lấy 75 mẫu đất và 75 mẫu nước (tại xã Bình Mỹ và xã Nhị Bình) để phân tích mẫu đất, nước và dư lượng thuốc BVTV. Kết quả: 74 mẫu đất có hàm lượng nguyên tố kim loại nặng (Cd, Pd, Cu, Zn) dưới ngưỡng giới hạn tối đa cho phép, riêng 1 mẫu đất có hàm lượng Cu vượt ngưỡng giới hạn tối đa cho phép (tại ấp 7, xã Bình Mỹ); 73/75 mẫu nước có hàm lượng nguyên tố kim loại nặng (Cd, Pd, Cu, Zn) dưới ngưỡng giới hạn tối đa cho phép. 2/73 mẫu có hàm lượng Hg, As vượt ngưỡng giới hạn tối đa cho phép (tại ấp 7 và ấp 4, xã Bình Mỹ). Kiểm tra 7 mẫu rau năm 2016 đều không phát hiện dư lượng thuốc BVTV vượt ngưỡng cho phép. 
Song song đó là việc xây dựng mô hình RMN VietGAP. Tại xã Nhị Bình, Trung tâm Khuyến nông TP thực hiện 2 mô hình với diện tích 26,7ha. Tại xã Bình Mỹ, Trung tâm Khuyến nông xây dựng 10 mô hình, diện tích 83,4ha. Ngoài ra, Chi cục BVTV TP xây dựng 4 mô hình, tương đương 22ha. Đến tháng 4-2017, Trung tâm Tư vấn và hỗ trợ nông nghiệp nhận 128 hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận VietGAP. Trong đó, đã có 62 hộ được chứng nhận với 50,6ha, tương đương 405,2ha diện tích gieo trồng với sản lượng hơn 8.100 tấn/năm. Có 4 hồ sơ với 3,9ha đang trong quá trình cấp giấy chứng nhận. Trung tâm Tư vấn và hỗ trợ nông nghiệp cũng đã xây dựng logo RMN VietGAP và quy chế sử dụng logo RMN cho Tổ hợp tác ở xã Nhị Bình và Bình Mỹ. Tuy nhiên, có đến 50 hộ chưa đạt yêu cầu sản xuất. Chủ yếu là do bà con chưa quen với việc phải đảm bảo ghi chép đầy đủ nhật ký sản xuất về việc mua và sử dụng thuốc BVTV, hoặc vẫn còn phát hiện dư lượng thuốc BVTV vượt ngưỡng cho phép. Đáng chú ý, có đến 12 hộ sản xuất hủy đánh giá do không muốn tiếp tục được chứng nhận VietGAP, vì cho rằng sản xuất theo VietGAP nhưng giá bán giữa 2 loại (RMN thường và rau VietGAP) không có sự chênh lệch để khuyến khích sản xuất.  
Kết nối nhưng chưa gắn bó 
Sự thành bại của việc tổ chức lại sản xuất, hình thành cánh đồng RMN VietGAP là vấn đề đầu ra sản phẩm. Trung tâm Tư vấn và hỗ trợ nông nghiệp đã tổ chức hội nghị kết nối, giới thiệu sản phẩm với các bếp ăn công nghiệp và bếp ăn các trường học; phối hợp với hệ thống siêu thị Co.opMart, SATRA cùng các HTX Thỏ Việt, Phú Lộc, Phước An, Mai Hoa, Ngã Ba Giồng, Công ty Sông Xanh, Công ty Sông Khang, Công ty Hiệp Nông, hệ thống siêu thị Bách hóa Xanh để kết nối, tiêu thụ RMN của Tổ hợp tác Nhị Bình, Bình Mỹ. Hiện nay, lượng RMN tiêu thụ ổn định qua hợp đồng khoảng 1,5 tấn/ngày (trong tổng số 25 tấn RMN VietGAP), chiếm khoảng 6% sản lượng thu hoạch hàng ngày. Số còn lại bán ra thị trường ngoài với giá khoảng 3.500 đồng/kg. 
Tuy nhiên, quá trình kết nối gặp thử thách khi giá cả biến động. HTX Phú Lộc ký hợp đồng với Tổ hợp tác RMN xã Nhị Bình, cam kết bao tiêu sản phẩm. Nhưng tháng 11-2016, giá RMN tăng mạnh, có lúc lên 20.000 đồng/kg, trong khi giá hợp đồng với HTX chỉ 5.000 đồng, sau đó tăng lên 7.500 đồng. Giá chênh lệch cao, bà con bán hết ra thị trường nên hợp đồng chỉ thực hiện được khoảng 2 tháng. HTX Ngã Ba Giồng cũng ngưng mua khi giá biến động. Việc tiêu thụ qua hợp đồng chiếm tỷ lệ thấp, một bộ phận người trồng không có động lực để sản xuất VietGAP khi giá bán không có sự chênh lệch. Góp phần vào khó khăn của cánh đồng RMN còn có nguyên nhân do đa phần người trồng là dân nhập cư đến thuê đất trồng theo từng năm, nên họ phải sống ngay tại nơi sản xuất (gây ra ô nhiễm vi sinh vật), không dám đầu tư dài hơi vì có thể thay đổi liên tục khi giá thuê tăng từng năm. 
Một nguyên nhân khác khiến cho việc kết nối tuy có nhưng chưa gắn bó là tình trạng thiếu nhà sơ chế. Theo Chi cục BVTV, lấy 5 mẫu kiểm tra sau khi sơ chế cho thấy lượng vi sinh giảm đáng kể. Khi thu hoạch, nếu bà con sơ chế, giá bán cũng sẽ cao hơn 500 - 1.000 đồng/kg, nhưng đa số bà con không có lao động hay mặt bằng để làm. Trong khi đó, kế hoạch xây dựng 3 nhà sơ chế cho vùng RMN VietGAP của TP chưa thực hiện được, không chỉ do vướng về đấu thầu mà ngay cả về địa điểm (vị trí HTX Thỏ Việt đưa ra chưa được sự đồng thuận do xa vùng sản xuất), riêng HTX Phú Lộc vẫn chưa có địa điểm để khảo sát. 
Theo ông Trần Ngọc Hổ, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc giải bài toán hỗ trợ trong tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động lớn đến phát triển sản xuất. Vì vậy, cần tích cực hơn nữa trong việc tiếp xúc với các kênh tiêu thụ lớn, ngoài Co.opMart, còn có Aeon, Big C...; đồng thời tiếp cận sâu hơn bếp ăn của các trường học, các khu công nghiệp và khu chế xuất. Ngoài ra, có thể tham mưu để TP phối hợp với Sở Công thương, các khu công nghiệp, khu chế xuất, Sở Giáo dục và Đào tạo trong việc kêu gọi cũng khuyến khích tiêu thụ rau RMN VietGAP.
Vấn đề gút mắc còn ở chỗ, hiện nay, hầu hết thuốc BVTV sử dụng cho RMN chủ yếu là thuốc cho cây lúa, dù hoạt chất cho phép sử dụng trên cây trồng khác nhưng trong danh mục thì lại không có RMN. Các công ty nhập khẩu hay sản xuất không mặn mà đăng ký thêm đối tượng RMN do tốn nhiều chi phí và công sức, mà lượng sử dụng không nhiều so với lúa.

Tin cùng chuyên mục