
Chẳng biết cụm từ gọi là “chợ cóc” có từ bao giờ, tuyệt không thấy trong bất kỳ cuốn từ điển nào. Có thể là nó sinh ra từ sau thời Pháp thuộc. “Chợ cóc” dùng để chỉ những cái chợ luôn bị cảnh sát đuổi vì tụ họp ở nơi sai quy định. Sau hòa bình đã thấy cụm từ này lưu hành ở Hà Nội. Trước đó Hà Nội có phố Chợ Đuổi là phố Tuệ Tĩnh bây giờ, dân họp chợ ở đây suốt ngày bị đuổi đến mức gọi thành tên phố.

Minh họa: KT
“Chợ cóc” biến hóa khôn lường. Bất cứ nơi đâu trong thành phố cũng có thể thành ngay một cái “chợ cóc”, từ đường to, phố lớn cho đến ngõ ngách đông vui; từ cổng trường, nhà máy, công sở cho đến khu chung cư thấp tầng và cao cấp. Người Hà Nội nhiều năm nay quen với việc bất ngờ sáng bước chân ra cửa gặp ngay một cái “chợ cóc” mới toanh. Đầu tiên là một bà bán rau với thập cẩm hàng hóa bày ngay trên vỉa hè. Ngày hôm sau có thêm bà bán đậu phụ chở đôi thùng đến góp chiếu. Hôm sau nữa là vài mẹt thịt lợn với vài chậu cá sống. Sau nữa đến mẹt thịt gà và mấy sọt hoa quả. Cuối cùng là những chiếc xe đạp chở hoa sặc sỡ dừng chân ngay dưới lòng đường góp mặt. Vậy là thành cái “chợ cóc” đủ món.
“Chợ cóc” mang tính cơ động rất cao. Buổi sáng họp trên vỉa hè chỉ được đến 7 giờ là cùng. Hàng hóa gọn nhẹ xếp trước lên xe máy chỉ chờ chiếc xe bán tải của lực lượng tự quản phường đến là nổ máy rút lui. Ngày nào cũng họp chợ và ngày nào cũng đuổi. Chậm chân bị thu mất đồ nghề lại về phường nộp phạt lấy ra để mai còn có cái đi chợ. Quy trình này thực hiện hoàn thiện đến mức “vận trù học”. Các bước diễn ra theo trình tự gần như chẳng ai phải giải thích với ai thêm một lời nào.
“Chợ cóc” không phải lúc nào cũng ở quy mô tạm bợ và nhỏ hẹp. Nếu có điều kiện khi chính quyền lơ là thì lập tức nó lớn mạnh không ngừng, cả về quy mô lẫn thời gian tụ họp. Nó giống như các hàng bán đồ ăn sáng vỉa hè Hà Nội, bất cứ ngõ ngách nào đủ rộng là lập tức bếp than tổ ong và nồi niêu bát đũa bày ra. Ban đầu là vài chiếc ghế nhựa thấp như ngồi xổm và cũng ghế ấy làm bàn để bát ăn. Sau nâng cấp lên bàn ghế cao hơn và thêm vào chiếc mái vải bạt che trên đầu. Sau nữa là vải bạt che hai bên hông vì bên cạnh cũng bắt đầu mở hàng. Sau nữa là hết giờ ăn sáng lại nhường nguyên bàn ghế và mái che cho hàng bún đậu mắm tôm, bún chả ăn trưa.
Không phải “chợ cóc” nào cũng đáng chán như thế. Hà Nội có cái “chợ cóc” vĩ đại nhất là chợ sinh vật cảnh trên đường Hoàng Hoa Thám, ra đời đã vài chục năm rồi. Chợ ban đầu họp vào khoảng những năm 90 thế kỷ trước. Vài người bán cây cảnh, chó mèo dạo tụ tập ở đấy. Nó duy trì phiên ngày 4 và ngày 9 như chợ Bưởi ở phía cuối đường. Đến tận bây giờ, dù rằng ngày nào cũng đông vui tấp nập nhưng dân Hà Nội vẫn nhớ ngày phiên. Thật ngạc nhiên là chính cái chợ Bưởi có tuổi đời vài thế kỷ giờ đây nhiều ngày vắng hoe kể cả đúng phiên.
Đã có nhiều nhà ngôn ngữ học bình dân muốn tìm hiểu gốc gác ra đời của cụm từ “chợ cóc”. Người thì giải thích rằng đó là cái chợ người bán ngồi xổm như cóc vậy. Kể cũng không sai nhưng định nghĩa này có vẻ kém phần kính trọng con người. Có người lại bảo gọi “chợ cóc” là vì khi bị đuổi sẽ nhảy sang chỗ khác như cóc. Đúng thế. Nhưng có vẻ như chính quyền sẽ phật ý bởi câu thành ngữ “Bắt cóc bỏ đĩa” giống như kết luận họ không hoàn thành nhiệm vụ. Cũng có người chép miệng định nghĩa một câu rất hay “Đã là cậu ông giời thôi thì muốn thế nào chẳng được”. Nhưng chẳng một ai tán thành, bởi vì gọi là “Chợ cậu ông giời” không chỉ xúc phạm một mình thượng đế mà thôi.
Người Hà Nội cả mới lẫn cũ vẫn chưa thể quen được với một cái chợ không có chuyện mặc cả như siêu thị. Công đoạn mặc cả hình như không chỉ liên quan đến chuyện đắt rẻ mà còn là chỗ giao lưu tìm hiểu chính thứ mình quan tâm. Con cá mớ rau, cây cảnh, vật nuôi sẽ được cả bên bán lẫn bên mua định ra giá trị gần với sự thật nhất.
ĐỖ PHẤN