
Nghịch lý sản xuất
Chia sẻ tại Hội thảo “Chiến lược phát triển ngành sữa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” do Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) tổ chức sáng 12-8, ông Trần Quang Trung, Chủ tịch Hiệp hội Sữa Việt Nam cho biết, mức tiêu thụ sữa bình quân của Việt Nam đạt khoảng 27 lít/người/năm và dự báo tiếp tục tăng 7% - 8% mỗi năm. Doanh thu toàn ngành tăng từ 4,4 tỷ USD năm 2017 lên hơn 5 tỷ USD năm 2023. Tổng đàn bò sữa tăng bình quân 4,6%/năm, từ 228.000 con năm 2014 lên khoảng 335.000 con năm 2024; sản lượng sữa tươi nguyên liệu tăng gần 8,4%/năm, đạt hơn 1,2 triệu tấn. Tuy nhiên, con số này mới đáp ứng khoảng 40% nhu cầu chế biến.

Năm 2024, Việt Nam chi hơn 1 tỷ USD nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa, phần lớn là sữa bột. Đáng chú ý, 6 tháng đầu năm 2025, kim ngạch nhập khẩu lên tới 659,3 triệu USD, cao hơn 35,5% so với cùng kỳ năm 2024. Sự phụ thuộc này làm gia tăng chi phí, hao tổn ngoại tệ và tiềm ẩn rủi ro về chất lượng.
“Thật nghịch lý khi một quốc gia nông nghiệp như Việt Nam lại phụ thuộc lớn vào nguyên liệu sữa từ nước ngoài”, ông Trung thẳng thắn.
Chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, TS. Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam cho rằng, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của chúng ta còn thiếu đồng bộ, quản lý sữa nhập khẩu còn lỏng lẻo, khiến sữa bột hoàn nguyên giá rẻ dễ dàng lấn át sữa tươi trong nước. Bên cạnh đó, thói quen tiêu dùng vẫn coi sữa là sản phẩm cho trẻ em và người bệnh, chưa hình thành văn hóa uống sữa thường xuyên như ở các nước phát triển.

Theo ông Dương, để phát triển bền vững, ngành sữa phải làm chủ nguồn nguyên liệu, gắn chăn nuôi bò sữa với liên kết chuỗi và ứng dụng công nghệ cao từ nhân giống đến chế biến.
Mở rộng vùng nguyên liệu, chủ động nguồn cung
Chiến lược phát triển ngành sữa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu đến năm 2030 nâng đàn bò sữa lên 650.000 - 700.000 con, sản lượng sữa tươi đạt 2,6 triệu tấn, trong đó 60% nuôi trong các trang trại công nghệ cao đạt chuẩn Global G.A.P, hướng tới trung hòa carbon. Xa hơn, đến năm 2045, phấn đấu sản lượng đạt 6,2 triệu tấn, tự chủ 80% - 82% nguồn nguyên liệu, mức tiêu thụ bình quân đạt 70 lít/người/năm.
Để đạt mục tiêu này, PGS.TS Trần Quang Trung cho rằng, điều kiện tiên quyết để phát triển ngành sữa bền vững là làm chủ nguồn nguyên liệu trong nước, phát triển chăn nuôi bò sữa gắn với liên kết chuỗi, áp dụng công nghệ cao từ nhân giống, chăm sóc đến chế biến.
“Cần quy hoạch vùng đồng cỏ, chủ động nguồn thức ăn chăn nuôi, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, quản lý khép kín “từ đồng cỏ đến bàn ăn”, từ đó nâng cao năng suất và chất lượng”, ông Trung nhấn mạnh.

Từ góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Quang Trí, Giám đốc Điều hành Marketing Vinamilk cho rằng cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, đơn giản hóa thủ tục đầu tư và đăng ký sản phẩm. Song song đó, ban hành chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai để mở rộng vùng nguyên liệu, nâng tỷ lệ nội địa hóa. Đồng thời thúc đẩy xúc tiến thương mại, tháo gỡ rào cản kỹ thuật; hỗ trợ nghiên cứu, đổi mới công nghệ và đào tạo nhân lực chất lượng cao. Đặc biệt, ông Trí cho rằng, một yếu tố quan trọng khác là duy trì đối thoại thường xuyên giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.
Ở tầm nhìn dài hạn, TS. Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam, cho rằng cần chuyển dịch mạnh từ sữa bột hoàn nguyên sang sữa tươi sạch, vừa đảm bảo lợi ích dinh dưỡng, vừa củng cố nền nông nghiệp tự chủ. Đồng thời, hoàn thiện hệ thống thể chế, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật để phân loại rõ ràng sản phẩm, có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp ưu tiên sử dụng nguyên liệu nội địa, song song với tăng cường truyền thông từ học đường để nâng cao nhận thức tiêu dùng.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài khẳng định, chiến lược phát triển ngành sữa phải đồng bộ từ vùng nguyên liệu, công nghệ chế biến đến phân phối; đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng và an toàn thực phẩm. Đồng thời tận dụng cơ hội hội nhập để nâng cao năng lực cạnh tranh của sữa Việt trên thị trường trong và ngoài nước.