
Từ hội chợ đến đơn đặt hàng
Đầu tháng 9, tại Vietnam International Sourcing 2025 (VIS 2025), không khí giao thương sôi động diễn ra ở Trung tâm Triển lãm và hội nghị Sài Gòn (SECC) cho thấy hàng Việt đang đứng trước thời cơ lớn. Sự kiện thu hút hơn 300 nhà mua hàng quốc tế đến từ 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, với sự hiện diện của những tập đoàn khổng lồ như Walmart, Amazon, IKEA, H&M… Người mua đến không chỉ để quan sát mà mang theo danh mục đặt hàng cụ thể, từ thực phẩm chế biến, gia vị, hàng tiêu dùng nhanh đến dệt may, đồ gia dụng. “Trong 8 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt 305,96 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ, mở ra triển vọng cán mốc 800 tỷ USD cả năm”, bà Phan Thị Thắng, Thứ trưởng Bộ Công thương, cho biết.
Thực tế, nhiều sản phẩm nhãn riêng và hàng thực phẩm chế biến mang đặc trưng thuần Việt đã được xuất khẩu và đứng chân tại các thị trường khó tính trên toàn cầu. Đơn cử như Saigon Co.op đã hợp tác cùng Hee Chang Group để đưa hàng vào hệ thống siêu thị H-Mart tại Mỹ và từ tháng 9-2024 đã đưa hàng sang Canada. “Điểm mạnh của Saigon Co.op là khả năng gom hàng chuẩn hóa từ hàng trăm nhà cung cấp nội địa, kiểm soát chất lượng, truy xuất nguồn gốc và đưa vào cùng một hệ thống quản trị. Đây là lợi thế lớn khi làm việc với đối tác quốc tế, vốn đòi hỏi đơn hàng lớn, ổn định và tuân thủ chuẩn mực quốc tế”, ông Nguyễn Ngọc Thắng, Phó Tổng giám đốc Saigon Co.op chia sẻ. Ông Thắng cũng lưu ý, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, yếu tố chính danh thương hiệu trở thành điều kiện tiên quyết. Sản phẩm phải có nguồn gốc rõ ràng, được bảo hộ sở hữu trí tuệ và đạt chuẩn an toàn - xanh - bền vững mới có thể giữ được chỗ đứng lâu dài. “Nếu thương hiệu Việt không xây dựng được niềm tin minh bạch, nguy cơ bị hàng giả, hàng nhái và cạnh tranh không lành mạnh trên không gian số sẽ rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín ngay trên sân nhà”, ông Thắng nhấn mạnh.
Tiêu dùng xanh, an toàn
Trong khi kênh xuất khẩu trực tiếp đang mở rộng, thì kênh số và bán lẻ hiện đại cũng chứng kiến sự tăng tốc mạnh mẽ. Năm 2024, thương mại điện tử (TMĐT) Việt Nam đạt quy mô trên 25 tỷ USD, đứng thứ ba ASEAN. Theo giới chuyên môn, việc Chính phủ siết lại khung pháp lý với các sàn xuyên biên giới, yêu cầu đăng ký và kiểm soát thuế, đã tạo sân chơi công bằng hơn cho nhà bán lẻ nội địa. Riêng Saigon Co.op ghi nhận doanh thu TMĐT chiếm hơn 10% tổng doanh thu, tăng gần 50% so với năm trước, với mục tiêu đạt 3.500 tỷ đồng TMĐT trong năm 2025. Việc siết chặt kênh TMĐT quốc tế là cơ hội để Saigon Co.op đẩy mạnh kênh online, phát triển mô hình omni-channel (kinh doanh tích hợp, đồng bộ tất cả các kênh bán hàng và giao tiếp khách hàng).
Song song với chuyển đổi số, xu hướng tiêu dùng xanh và an toàn ngày càng chiếm ưu thế. Khảo sát của Công ty Nghiên cứu thị trường Nielsen cho thấy, 86% người tiêu dùng Việt sẵn sàng chi trả thêm cho sản phẩm thân thiện môi trường. Đây là lý do các nhãn hàng đạt chứng nhận xanh, organic, HACCP hay MSC/ASC… trở thành “ngôi sao mới” trên kệ hàng. Từ năm 2006, TPHCM cũng triển khai mạnh chứng nhận Doanh nghiệp Xanh, kết hợp tổ chức chiến dịch Tiêu dùng Xanh (2025) nhằm kêu gọi doanh nghiệp nâng chuẩn sản xuất, gia tăng giá trị bền vững. Nhiều chuyên gia đề xuất việc xếp hạng minh bạch từ tổ chức quốc tế sẽ là cơ sở để củng cố niềm tin, tạo lợi thế khi tiếp cận đối tác toàn cầu.
Ông Lư Nguyễn Xuân Vũ, Chủ tịch Hội Doanh nhân Sài Gòn, cho rằng: “Người tiêu dùng hiện nay thường cầm điện thoại để tìm kiếm thông tin trước khi mua hàng. Nếu doanh nghiệp không hiện diện và định vị thương hiệu trên không gian số sẽ bị chậm một nhịp, thậm chí mất cơ hội”. Ông Vũ ví thương hiệu như “tấm hộ chiếu” giúp sản phẩm vượt qua rào cản kỹ thuật, khẳng định bản sắc và tạo niềm tin với đối tác quốc tế. Với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đầu tư cho thương hiệu số không còn là lựa chọn mà là điều kiện sống còn.
Trong khi đó, ông Nguyễn Đặng Hiến, Tổng giám đốc Công ty Tân Quang Minh (Bidrico) phân tích: “Giữ được thương hiệu Việt cho người Việt cũng chính là bước đệm để hàng Việt ra thế giới. Doanh nghiệp cần mạnh dạn sử dụng nguyên liệu nội địa, phát triển sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên, xanh hóa và công nghệ hóa quy trình để sản phẩm vừa đáp ứng chuẩn quốc tế vừa giữ được lợi thế riêng của Việt Nam”. Ông cũng nhấn mạnh cần sự hỗ trợ chính sách trong bảo hộ thương hiệu và khuyến khích đổi mới công nghệ để giảm rủi ro cạnh tranh, tạo thêm sức bật cho doanh nghiệp.