Cự Nẫm - một làng nằm ở bờ Nam sông Gianh vốn nổi tiếng với những chiến công trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Vào cuối năm 1968, đầu năm 1969, Cự Nẫm bỗng trở thành nơi tập kết quân cuối cùng trên đất Bắc trước khi nhập trạm T.5 - trạm đầu tiên trên tuyến đường Trường Sơn. Một hoặc hai ngày nghỉ ở Cự Nẫm, giữa bom đạn ùng oàng gần xa lính ta còn được nhìn thấy lần cuối cùng đôi vai tròn, bóng dáng óng ả của các cô gái làm ruộng trên đồng, kéo nước bên giếng; còn được nghe lần cuối tiếng võng kẽo kẹt như điểm nhịp tiếng bà ru cháu, tiếng chị ru em…
Trạm Cự Nẫm bổ sung cho người sắp lên Trường Sơn thịt hộp, mắm ruốc, sữa đường… Lính ta cũng vội vã xé sổ tay, viết những dòng thư cho người yêu ở lại hậu phương để được bỏ phong thư vào thùng bưu điện của một làng cuối cùng trên đất Bắc…
Đấy là việc làm muộn màng của những chú lính chân chỉ hạt bột, còn đám lính Hà Nội tinh ranh, ma quái chúng tôi lúc này đã có thể nằm gác chân trên võng, phì phèo điếu thuốc Tam Đảo, mắt lơ đãng ngó nhìn mặt sông Gianh thấp thoáng phía sau hàng tre mà nôn nao nhớ lại bao kỷ niệm những ngày sắp chia tay…
Kỷ vật cuối cùng gửi lại cho người thương lính Hà Nội đã biết lo từ đêm hôm trước.
Không biết ai mách nước, những ông “tham mưu con” đã rỉ tai nhau, bên bờ Bắc sông Ròn có sản phẩm nón Ba Đồn nổi tiếng từ ngày xửa ngày xưa. Chẳng biết nón Ba Đồn có đẹp, có bền hơn nón làng Chuông bày bán ở chợ Đồng Xuân không? Chỉ cần nghĩ rằng vào tới Ba Đồn, tới sông Gianh là đã đi xa Hà Nội cả một “dặm đường máu lửa”, đã sắp rời hậu phương miền Bắc để đặt chân lên Trường Sơn. Hẳn người yêu của ta khi cầm trên tay chiếc nón Ba Đồn sẽ bổi hổi bồi hồi vừa nhớ nhung, vừa tự hào biết bao về chàng trai biết dãi gió dầm sương, biết xông pha nơi trận mạc. Chỉ còn một sự hệ trọng không thể quên: muốn chiếc nón nguyên lành, không bẹp, không méo thì hãy biết chăm lo, chiều chuộng, thậm chí tâng bốc lên mây xanh cánh lái xe. Để bọn hắn chằng buộc cẩn thận chiếc nón ngay trong buồng lái và trên đường trở ra đừng có ngủ gật để xe không lao xuống hố bom hay lòng sông lòng suối.
Xe vào tới thị trấn Còng, giáp ranh hai tỉnh Thanh Nghệ đã cảm nhận ra hơi thở của chiến trường. Phía Tây, máy bay trinh sát Mỹ nháy đèn chụp ảnh liên hồi. Phía Đông nhang nháng ánh lửa của đạn từ pháo hạm Mỹ bắn vào các xóm làng ven biển. Dọc đường lộ 1, đèn dù từ máy bay Mỹ thả xuống lúc xa lúc gần. Đèn dù vừa tắt lập tức rền vang tiếng bom, tiếng rocket. Nghỉ một ngày ở thị trấn Voi, Hà Tĩnh. Vừa sẩm tối hôm sau xe tranh thủ vượt đèo Ngang, xuống tới chân đèo đã sang đất Quảng Bình, đã gặp ngay sông Ròn, phà Ròn.
Ngày nay, vài ba năm có dịp qua lại sông Ròn tôi đứng rất lâu trên cây cầu mà không thể nào tự trả lời nổi câu hỏi, vì sao chỉ một khúc sông hẹp, êm đềm, hiền hòa trôi chảy trước mắt tôi kia mà một thời lại trở thành trọng điểm đánh phá quyết liệt của đủ loại máy bay và hạm pháo của Mỹ đến như vậy. Con đường đổ xuống bến phà mù mịt bụi xe, nhỏ to tiếng người gọi nhau lẫn lộn trong tiếng xe rồ máy xuống phà. Tôi như nghe thấy tiếng nổ inh tai nhức óc của bom Mỹ từ đường 20, từ phía bờ bên kia phà Ròn vọng tới. Phía ven biển pháo hạm của địch đang đổ đạn xuống các xóm thôn. Ngọn lửa nhà cháy mỗi lúc vươn ngọn một cao thêm. Tiếng các mắt tre, mắt luồng nổ lốp bốp. Văng vẳng trong gió nhận ra cả tiếng khóc, tiếng hời của những người gặp nạn. Hai bên con đường xuống bến phà là những cánh đồng nước chi chít hố bom…
Trong cái ắng lặng, căng thẳng, thần chết đang rình rập như thế, không biết từ đâu bỗng túa ra những bóng dáng thấp nhỏ với những chồng nón trắng trên tay. Các cháu len lỏi giữa đám xe cộ tìm đến bên những tốp lính, giọng ngọt ngào, dễ nghe mời chào:
– Nón Ba Đồn đây các chú ơi! Các chú mua, làm quà gửi về quê cho các cô!
– Nón thương, nón nhớ, nón đợi nón chờ… Các chú mua cho mấy cháu đi!
Chúng tôi cầm nón lên tay, không lựa chọn, móc tiền trong túi ra trao cho các cháu mà không cần đếm, vì đây là những đồng tiền cuối cùng còn chi tiêu được trước khi đặt bước lên Trường Sơn. Lòng dạ bồn chồn, nôn nóng chúng tôi chỉ mong các cháu bán cho hết thật nhanh những chồng nón kia để mau chóng tránh xa nơi cái chết có thể bất thần ập tới.
Từ phà Ròn vào tới phà Gianh chúng tôi vội vã ghi những dòng chữ thương nhớ lên phía bên trong vành nón. Ghi dưới ánh đèn dù pháo sáng. Ghi trong ánh sáng nhỏ như hạt đỗ của chiếc phao đèn pin đã bị che kín mít. Ghi dưới ánh sáng của ngọn đèn gầm khi xe ô tô bị sa rệ: “Tạm biệt em yêu, anh đi nhé!”, “Phà Ròn, Quảng Bình… Nhớ em rất nhiều”, “Quà nghèo gửi tới cho ai. Đừng đếm ngày rộng tháng dài, anh đau”, “Chờ anh, anh lại về. Trông chết cười ngạo nghễ”…
Trong 11 người lính Hà Nội mua nón Ba Đồn gửi về cho người yêu đêm qua phà Ròn năm ấy đã nằm lại trên mảnh đất các chiến trường hết 8. Đứa chết vì đạn. Đứa chết vì pháo bày, vì bom tọa độ. Đứa chết do sốt rét ác tính. Cũng có đứa chết tức tưởi vì cây đổ đè vỡ xương chậu trong mùa phát nương trồng sắn chống đói…
Những đứa còn sống sót trở về Hà Nội, như hẹn ước với nhau, không bao giờ hé miệng nhắc lại chuyện đã mua những chiếc nón Ba Đồn gửi cho người yêu thuở nào. Vài ba năm trước, trong lúc trà dư tửu hậu với đám bạn văn quê Quảng Bình, tôi chợt nhớ lại đêm mua nón Ba Đồn mấy chục năm trước khi chờ qua phà Ròn. Nghe chuyện, nhà văn Nguyễn Quang Lập bỗng thủng thẳng:
– Ồ, vui rứa đó! Trong đám trẻ bán nón Ba Đồn ở bến phà Ròn thuở ấy có em và thằng Vinh (nhà văn Nguyễn Quang Vinh, em trai Nguyễn Quang Lập). Sao bọn em không nhận ra anh hề?
Tô Hoàng