Báo cáo công bố ngày 5-10 của Ngân hàng Thế giới (WB) về tình hình kinh tế Việt Nam nhận định, thâm hụt ngân sách tiếp tục tạo áp lực cho chính sách tài khóa, với mức dự kiến 5,6% GDP trong nửa đầu năm 2015 (tính cả trả nợ gốc). Điều đó thể hiện hiệu quả ngân sách kém trong khi chi thường xuyên và chi cho đầu tư cơ bản tăng.
Tổng nợ công và nợ do Chính phủ bảo lãnh tiếp tục tăng và đạt mức 59,6% trong năm 2014 (54,5% năm 2013). Tuy nợ công vẫn nằm trong giới hạn bền vững nhưng chi phí trả nợ đã bắt đầu “ăn” vào các khoản chi hỗ trợ sản xuất khác trong ngân sách. Trước đó, hồi tháng 7 vừa qua, WB cũng đã “bật đèn vàng” khi công bố số nợ công của Việt Nam đã vượt 110 tỷ USD và tình trạng mất cân đối tài khóa đã kéo dài nhiều năm.
Trước đó, cuộc tranh luận về chủ đề nợ công của Việt Nam thực chất là bao nhiêu cũng đang là vấn đề “nóng”. Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai, gần đây một số phương tiện thông tin truyền thông dẫn tài liệu từ Học viện Chính sách và phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, nợ công của Việt Nam khoảng 66,4% GDP là “không chính xác, do cách tính sai lầm”. Cụ thể, con số 66,4% là đã tính thêm chi phí dự phòng nợ bất khả kháng 5%. Trong khi, theo Luật Quản lý nợ công hiện hành, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Bộ Tài chính đang tiếp tục đối chiếu với các nhà tài trợ và qua quyết toán của các đơn vị thì con số nợ công năm 2014 có thể thấp hơn 59,6%. Mặc dù vậy, TS Đỗ Thiên Anh Tuấn (Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright) lại cho rằng, định nghĩa nợ công nói trên tuy đúng với tiêu chuẩn của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nhưng đã “bỏ qua” nợ của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), thành phần vốn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Ngay cả khi không được Chính phủ bảo lãnh chính thức, một khi DNNN vỡ nợ thì Chính phủ cũng phải can thiệp bằng cách này hoặc cách khác. Chính vì vậy, nếu thận trọng tính cả nợ của DNNN thì tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam đã... trên dưới 100% GDP, chưa kể nợ đọng xây dựng cơ bản hiện chiếm khoảng 1,5% GDP.
Bất luận tỷ lệ hiện thực là xấp xỉ 100%, 66,4% hay 59,6%, thì các chuyên gia đều thống nhất với nhau ở một điểm: lo ngại về khả năng trả nợ của quốc gia. TS Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, xét từ góc độ sức lan tỏa của các dự án đầu tư công, Việt Nam chưa sử dụng hiệu quả nợ công. Trong 10 năm qua, nợ công của Việt Nam đạt mức tăng bình quân gần 18%/năm, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Phát hành trái phiếu quốc tế để đảo nợ là cách mà Hy Lạp đang làm và Việt Nam cũng đã thực hiện vào cuối năm 2014, với tổng trị giá 1 tỷ USD lãi suất 4,8%. Đảo nợ để được hưởng lãi suất tốt hơn là giải pháp đúng đắn, tuy nhiên, theo TS Thành, chỉ là giải pháp tình thế. Đảo nợ chỉ hữu hiệu khi đi kèm các biện pháp tăng cường kỷ luật tài khóa và áp đặt ràng buộc ngân sách “cứng” nhằm giảm gánh nợ cho ngân sách...
Trong khi đó, Việt Nam đã bắt đầu bước vào giai đoạn dân số già hóa với tốc độ nhanh. Ước tính nước ta sẽ có khoảng 25 - 30 năm để chuyển từ dân số vàng (bắt đầu từ năm 2007) sang già hóa dân số (khoảng thời gian tương ứng ở Pháp và Thụy Điển lần lượt là 115 và 70 năm). Thêm vào đó, năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất châu Á - Thái Bình Dương, mà tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam lại có xu hướng giảm. Nếu trong giai đoạn 2002 - 2007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2%/năm thì từ năm 2008 - 2014, tốc độ tăng năng suất lao động trung bình chỉ còn 3,3%/năm.
Rõ ràng, cần có những giải pháp quyết liệt hơn mới tránh khỏi viễn cảnh nặng gánh nợ nần khi tuổi đã cao.
ANH THƯ