Gần đây, một số doanh nghiệp, hiệp hội doanh nhân các tỉnh, thành phố phản ánh việc mức lương nhân công đầu vào công bố tại Thông tư số 01/2015/TT-BXD của Bộ Xây dựng thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định là trái quy định của Nhà nước, gây khó khăn cho doanh nghiệp và thiệt hại cho người lao động. Phóng viên Báo SGGP đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Văn Khánh, Vụ trưởng Vụ Kinh tế xây dựng, Bộ Xây dựng (ảnh) để làm rõ hơn về vấn đề này.
° Phóng viên: Ông có thể cho biết ý kiến xung quanh việc một số doanh nghiệp, hiệp hội doanh nhân các tỉnh, thành phố phản ánh mức lương nhân công đầu vào công bố tại Thông tư của Bộ Xây dựng là trái quy định của Nhà nước?
° Ông PHẠM VĂN KHÁNH: Trước hết, tôi phải khẳng định rằng, các đơn vị trên hiểu chưa đúng về đối tượng áp dụng của các văn bản. Thông tư 01 hướng đến đối tượng là chủ đầu tư, tư vấn, các cơ quan quản lý, nhằm xác định mức lương nhân công xây dựng đầu vào phù hợp với giá nhân công xây dựng trên thị trường theo quy định của Nghị định số 112/2009/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình. Trong khi đó, Nghị định 103 hướng đến đối tượng là các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân... thuê mướn lao động theo hợp đồng, với mục đích để các bên ký kết hợp đồng lao động xác định mức lương tối thiểu đầu ra, là cơ sở để người sử dụng lao động trả lương cho người lao động làm việc trong điều kiện bình thường, bảo đảm đủ số giờ làm việc trong tháng và hoàn thành định mức lao động hoặc công việc đã thỏa thuận.
° Vậy mức lương nhân công xây dựng đầu vào quy định tại Thông tư 01 có gây thiệt hại cho người lao động khi họ chỉ được nhận mức tiền lương hàng tháng thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định?
° Theo hướng dẫn của Thông tư 01, đơn giá nhân công xây dựng đầu vào bằng lương nhân công đầu vào nhân với hệ số cấp bậc và chia cho 26 ngày làm việc trong tháng. Như vậy, giá nhân công tính theo tháng của một công nhân xây dựng bậc 1/7 (bậc thấp nhất) tại vùng I là: 2.350.000 x 1,55 = 3.642.500 đồng/tháng; tại vùng II là 3.332.500 đồng/tháng; tại vùng III là 3.100.000 đồng/tháng; tại vùng IV là 2.945.000 đồng/tháng. Trong khi đó, mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định tại Nghị định 103 tại vùng I là 3.100.000 đồng/tháng, vùng II là 2.750.000 đồng/tháng, vùng III là 2.400.000 đồng/tháng, vùng IV là 2.100.000 đồng/tháng. Nghĩa là, theo hướng dẫn tại Thông tư 01 thì giá nhân công đã cao hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định chứ không phải thấp hơn như đã phản ánh.
° Có ý kiến cho rằng đơn giá nhân công xây dựng xác định theo hướng dẫn của Thông tư 01 không xem xét đến phụ cấp khu vực là bất hợp lý, gây khó khăn cho doanh nghiệp và người lao động tại khu vực miền núi, khu vực khó khăn?
* Tôi xin khẳng định là đơn giá nhân công xác định theo các nguyên tắc trên đã bảo đảm tính đúng, tính đủ giá nhân công thị trường và đã bao hàm tất cả các loại phụ cấp cần thiết. Mặt khác, Thông tư 01 cũng đã quy định rõ, giá nhân công tính trong Thông tư này chỉ để tham khảo. UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải có trách nhiệm tổ chức điều tra, khảo sát thị trường xây dựng, thị trường lao động tại địa phương mình, từ đó xác định và công bố đơn giá nhân công xây dựng để làm cơ sở lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng các dự án có sử dụng vốn nhà nước trên địa bàn.
° Hiện vẫn còn một số đơn vị áp dụng cách tính đơn giá nhân công xây dựng đầu vào trong tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng công trình bằng cách lấy mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định nhân với hệ số cấp bậc, như vậy có đúng quy định của Nhà nước không, thưa ông?
° Đến thời điểm này, cách làm như vậy là sai quy định. Bộ Xây dựng đã có văn bản đề nghị UBND các tỉnh, thành phố khẩn trương công bố đầy đủ đơn giá nhân công xây dựng để làm cơ sở lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng trên địa bàn, đồng thời tăng cường tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn để các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện thống nhất. Tôi cho rằng, cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng, Thông tư này sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác quản lý chi phí đầu tư xây dựng, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đầu tư, góp phần tăng cường tính minh bạch, cạnh tranh trong quản lý chi phí và nâng cao hiệu quả dự án đầu tư xây dựng công trình.
° Cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!
BÍCH QUYÊN (thực hiện)