Món quà tôi giữ mãi trong tim

Món quà tôi giữ mãi trong tim

Món quà hai triệu đồng của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt tặng tôi năm 2000 không phải là món tiền lớn về giá trị. Nhưng với tôi, hai triệu đồng năm ấy là món quà vô giá, thật đáng trân trọng, tự hào. Tôi đã cất giữ món quà ấy mãi ở trong trái tim. Nó có cơ duyên từ buổi họp mặt của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt với một nhóm nhà văn tại Văn phòng Chính phủ phía Nam, số 7 Lê Duẩn.

Hôm ấy, bác Sáu (chúng tôi vẫn quen gọi cố Thủ tướng bằng danh xưng thân mật ấy) nói lên nỗi trăn trở, món nợ lớn mà bác đã mang nặng trong lòng nhiều năm. Đó là món nợ lớn với tầng lớp trí thức, địa chủ trong Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.

Nỗi bức xúc của bác Sáu đã lôi cuốn nhiều trái tim nhà văn hôm ấy. Và kết quả, Nhà xuất bản Trẻ đã hình thành nên dòng sách “Nhân vật Nam bộ chí”. Mỗi nhà văn được mời đến Văn phòng Chính phủ phía Nam hôm ấy chọn một nhân vật mà họ tâm đắc để đăng ký viết. Tôi hoang mang vô kể, không biết phải bắt đầu từ đâu, bởi đây là một đề tài khó nuốt, vượt xa với vốn sống của một nhà văn được sinh sau đẻ muộn như tôi. Nhưng cuối cùng rồi tôi cũng tìm ra nhân vật của mình, trước nỗi đau của Đức giáo tông Nguyễn Ngọc Tương khi vô tình đọc lướt qua lược sử về cuộc đời ông:

“Nén tình máu mủ vì danh đạo
Đành để hai con chịu nhục hình
Mệnh hệ nhơn sanh thà bảo trọng
Tình nhà cam phải chịu hy sinh”.

Món quà tôi giữ mãi trong tim ảnh 1

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và tác giả trong buổi họp mặt kỷ niệm 40 năm Mậu Thân. Ảnh: LÊ THÀNH CHƠN

Hai con trai của Đức giáo tông Nguyễn Ngọc Tương là kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt được du học, đỗ đạt ở Pháp đã sẵn sàng nghe theo lời kêu gọi của Bác Hồ, về nước, tham gia kháng chiến và lần lượt rơi vào tay quân Pháp. Nhằm mua chuộc, lôi kéo người đứng đầu giáo phái Cao Đài Ban chỉnh đạo ở Bến Tre, quân Pháp yêu cầu Đức giáo tông Nguyễn Ngọc Tương viết lá thư bảo lãnh để “có cớ” trả tự do cho hai con ông.

Trải qua bao đêm trắng đau khổ, giằng xé, Đức giáo tông Nguyễn Ngọc Tương viết thư trả lời: “Con trai tôi đã trưởng thành. Nó có sứ mạng của nó”. Người cha ấy đã nén nỗi đau xé lòng khi biết con mình không tránh được cái chết tàn khốc trong nhà tù nhưng ông không thể làm khác được, bởi nếu viết lá thư bảo lãnh con, cũng có nghĩa là ông phải ký với quân Pháp một “liên minh ma quỷ”, sẽ xô hàng vạn tín đồ đi vào con đường phản bội dân tộc.

Nỗi đau thảm, giằng xé của Đức giáo tông trong những đêm trắng ở tòa nhà Thiên lý mật truyền đã cuốn hút tôi dữ dội. Trải qua nhiều đêm trắng, hơn một năm ròng rã, rốt cuộc, tiểu thuyết “Đêm trắng của Đức giáo tông” hoàn thành. Tôi gởi bản thảo đến bác Sáu vì đã từng nghe bác kể về những người con của Nguyễn Ngọc Tương.

Tôi không ngờ đó cũng là thời điểm bác Sáu vô cùng bận rộn, phải chuẩn bị nhiều thứ ra Hà Nội, dự Đại hội Đảng lần thứ IX. Vậy mà bác Sáu vẫn mang theo bản thảo tiểu thuyết “Đêm trắng của Đức giáo tông” của tôi. Bác Sáu nói bác đã đọc trong hai ngày liền, nhiều đoạn không dằn được nước mắt. Rồi bác gọi điện cho thư ký là anh Trần Hữu Phước gửi cho tôi hai triệu đồng.

Bác nói đó là tiền cá nhân của bác thưởng cho một nhà văn trẻ mà viết được một câu chuyện cảm động về lịch sử… Nhận món quà từ tay anh Phước, tôi vô cùng ngỡ ngàng, sau đó là niềm xúc động, hạnh phúc khôn tả. Hai triệu đồng không phải là số tiền quá lớn trong cuộc đời cầm bút của mình nhưng với tôi đó là món quà vô cùng quý giá. Tôi cảm thấy được khích lệ vô cùng to lớn, được chia sẻ, tin yêu... Tôi gửi số tiền ấy trong ngân hàng, xem đó là một kỷ niệm đáng trân trọng, tự hào trong đời viết văn của mình.

Niềm hạnh phúc của tôi không dừng lại ở đó. Tôi, một nhà văn còn non trẻ, chỉ có nỗi đa cảm và lòng nhiệt tình mà được nhà lãnh đạo Chính phủ viết lời tựa cho tiểu thuyết “Đêm trắng của Đức giáo tông”, với những dòng trân trọng, chân thành, chừng mực:

“…Văn học cách mạng đã có nhiều tác phẩm làm sống mãi hình ảnh những chàng trai làng chất phác để lại đằng sau mẹ già, vợ trẻ, giếng nước, gốc đa ra trận làm anh Vệ quốc quân, anh bộ đội Cụ Hồ “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”, lập nên những chiến công hiển hách. Cũng không ít tác phẩm làm người đọc, người nghe bâng khuâng trước những trí thức đã một thời “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”.

Tuy nhiên, quả chưa nhiều tác phẩm đi sâu vào sự hy sinh cao cả, sự đóng góp đầy ý nghĩa cho cách mạng của những trí thức yêu nước tiêu biểu như Nguyễn Ngọc Nhựt… Cũng chưa có nhiều những tác phẩm phản ánh cuộc sống nội tâm đầy giằng xé giữa đạo và đời, những cuộc đấu tranh đầy trí tuệ, thầm lặng mà không kém phần khốc liệt của giới tu hành, nhất là những chức sắc tôn giáo nổi tiếng để góp phần xây nên khối đại đoàn kết toàn dân, đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập tự do và thống nhất đất nước. “Đêm trắng của Đức giáo tông” là một trong số không nhiều những tác phẩm đó.

Đọc “Đêm trắng của Đức giáo tông”, tôi thấy các nhà văn không kể lớn hay trẻ nếu có tâm đều có thể tìm ra những giá trị. Tôi mong rằng sẽ có thêm nhiều nhà văn với nhiều tác phẩm về những nhân vật lịch sử, những trí thức lớn tiêu biểu cho những giá trị và phẩm chất Việt Nam…”.

Sau này, tôi còn được gặp bác Sáu nhiều lần khi tham gia viết bài cho chuyên đề lịch sử Nam kỳ khởi nghĩa, Nam bộ kháng chiến. Khi tôi bày tỏ đang viết tiểu thuyết “Đêm Sài Gòn không ngủ” về Mậu Thân 1968, rất mong có buổi gặp bác để hiểu thêm về chủ trương tổng tấn công và nổi dậy từ cấp lãnh đạo năm ấy.

Tôi không ngờ chỉ mấy ngày sau, bác gọi tôi đến biệt thự Lan Anh bên bờ sông Sài Gòn. Đó là ngày 9-4-2007. Đó cũng là buổi trò chuyện dài nhất mà tôi từng gặp bác, suốt một buổi sáng. Hôm ấy, bác Sáu nói với tôi nhiều điều chất chứa trong Mậu Thân, về hùng khí, bi tráng, cả bi kịch lạc quan và không tránh né cả những sai lầm cấp chiến lược.

Hôm ấy, tôi đã cùng hòa những giọt nước mắt cùng bác Sáu khi bác nhắc đến nhiều đồng chí đã hy sinh. Trong tiểu thuyết “Đêm Sài Gòn không ngủ”, tôi có một chương dành cho cuộc trò chuyện với bác Sáu về Mậu Thân 1968.

Tôi cứ đinh ninh là sách sẽ in trong tháng 6 và quyển đầu tiên sẽ gửi đến bác Sáu với lòng tri ân sâu sắc; bởi lời động viên, sự thông hiểu, chia sẻ của Bác đã giúp tôi có thêm nghị lực xông vào cánh rừng gai góc của quá khứ; bởi bác Sáu hiểu đó là một công việc khó nhọc. Chỉ vài hôm nữa tiểu thuyết “Đêm Sài Gòn không ngủ” ra đời nhưng tôi đã không kịp mang đến tặng bác.

Dòng sông Sài Gòn vẫn trôi, căn phòng khách bác tiếp tôi vào buổi sáng tháng 4 năm ấy giờ đây cũng vắng bóng chủ nhân nhưng nụ cười trong lần cuối cùng tôi được gặp bác trong dịp lực lượng Biệt động kỷ niệm 40 năm Mậu Thân vẫn còn đọng lại.

Nụ cười hồn hậu của bác dường như đã xóa đi khái niệm khoảng cách bác Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) đã từng là một nhà lãnh đạo tiên phong trên con đường đổi mới, được cả nước và thế giới yêu mến, ngưỡng mộ, chia sẻ. Trong đáy lòng tôi, nụ cười cuối cùng ấy đồng nghĩa là lời động viên, khuyến khích của bậc cha chú mỗi khi gặp tôi: “Ráng lên cháu, còn nhiều việc phải làm. Hôm nào, bác sẽ kể cháu nghe…”.

Quá nhiều việc bận rộn nên bác Sáu không kịp kể cho tôi nghe những chuyện độc đáo về đất và người Nam bộ, cả những uẩn khúc, nỗi đau mà bác đã trải. Nhưng nụ cười, giọng nói đặc chất Nam bộ của bác Sáu với tôi như một lời nhắn gởi, truyền dẫn ngọn lửa nhiệt tình mà bác kỳ vọng vào con cháu. Và tôi hiểu, trách nhiệm tái hiện quá khứ hào hùng của cha ông trên đôi vai mình còn trĩu nặng.

Trầm Hương

Tin cùng chuyên mục