Ông lão mù và cây đàn cổ

Nghệ sĩ khuyết tật
Ông lão mù và cây đàn cổ

50 năm trôi qua, cây đàn bầu “thọ” 50 năm tuổi giờ vẫn luôn bên ông. Ngày trước, cây đàn dạo nhạc cùng ông đi tứ phương mưu sinh bằng nghề hát rong. Nay ông ở tuổi xế chiều, cây đàn bầu cổ ấy lại cùng ông cất lên những khúc nhạc do chính ông sáng tác để vui - buồn với cảnh đời cơ cực bên người vợ bệnh tật liệt thân. Ông tên Nguyễn Minh Phú (68 tuổi), quê ở xóm Cầu, thôn An Phước, xã Bình Hòa, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi…

Nghệ sĩ khuyết tật

Tôi tìm đến nhà ông Nguyễn Minh Phú khi nắng chiều vừa khuất. Căn nhà của ông nằm sâu trong cánh rừng hoang vắng, chỉ lèo tèo vài mái nhà nghi ngút khói chiều. Từ đằng xa tôi đã nghe tiếng đàn lúc trầm - lúc bổng hòa cùng một giọng hát trong veo. Thoạt nghe, tôi đoán đó là giọng hát của một người thanh niên trai trẻ – có thể là con ông chăng?

Tôi lặng lẽ bước vào nhà. Khó tin lẫn xúc động khi nhận ra đó là giọng hát của chính ông. Ông đang đánh đàn ngâm cho vợ nghe bài thơ Nuôi Vợ do chính ông sáng tác: “Nuôi vợ ốm đau chẳng phàn nàn/ cơm nuớc hàng ngày vẫn lo loan/ vệ sinh cầu - tiểu lo bưng dẹp/ áo quần thay giặt sạch đàng hoàng… Lâm trung gặp cảnh vai luôn gánh/ trọn tình trọn đạo nghĩa tào khang”.

Ông lão mù và cây đàn cổ ảnh 1

“Nghệ sĩ nghiệp dư” này luôn giúp vợ mình chống chọi với bệnh tật bằng lời ca tiếng hát

Ông quờ quạng ôm đàn đứng dậy từ chiếc giường cũ nát nơi vợ ông nằm khi biết có khách lạ ghé chơi, rồi ông cười bảo: “Giúp bà ấy giải sầu một chút ấy mà…”. Điều càng làm tôi bất ngờ hơn là ông rất cởi mở, xem tôi như người thân dù hồi giờ tôi và ông chưa từng “chạm mặt”. Tôi chỉ biết ông qua những lời tán dương, đồn thổi của nhiều người về biệt tài làm thơ, sáng tác bài hát của ông. Còn ông chẳng hề biết tôi là ai, hình hài tôi ra sao dù tôi đang đứng trước mặt của ông.

Sau một hồi bắt chuyện, lục lạo trong mớ giấy tờ cất trong tủ gỗ, ông lôi ra cho tôi xem một tập thơ do ông sáng tác. Ông sáng tác đủ thứ, từ chuyện nhật ký Đặng Thùy Trâm đến vụ bạo hành đối với em Nguyễn Thị Bình, kể cả những tác phẩm nói về tai nạn giao thông, ma túy… Cách làm thơ, sáng tác bài hát của ông không giống ai. Ông làm thơ, sáng tác bài hát bằng cách phân chia, ghép ý thơ, lời hát một cách ngăn nắp ngay trong đầu rồi thuộc làu, sau đó nhờ lũ trẻ trong xóm chép lại vào giấy để ai thích và cần thì có thể tới nhà ông mượn đọc. Ông bảo: “Ngày nào già cũng nghe radio, mỗi khi có sự kiện gì nổi bật, bức xúc già ngẫu hứng thì làm vài đoạn thơ, đôi ba khúc nhạc rồi đánh đàn ngâm, hát cho thỏa lòng!”.

Không chỉ giỏi trong thơ ca, ông còn làm cho dân trong làng “bái phục” bởi biệt tài đánh bắt cá. Những ngày mưa lũ, cá lên đồng ruộng, ông lại vác nơm, lưới, vợt ra dọc mương nước sâu bắt cá. Mùa lũ lụt, nhà ông lúc nào cũng đầy ắp cá trong nồi, giúp vợ chồng ông... tẩm bổ.

Tình nghĩa vợ chồng

Ông đã phải sống trong thế giới mù lòa từ nhỏ, mưu sinh qua ngày bằng nghề hát rong lận đận và cũng lắm gian nan. Trong cuộc đời, ông đã cuốc bộ không biết bao nhiêu cây số, đi qua không biết bao nhiêu vùng đất. Nơi nào cần tiếng hát của ông, nơi nào giúp ông có chén cơm sống qua ngày là ông tìm đến. Cũng nhờ tiếng hát làm say đắm lòng người mà bà Nguyễn Thị Lồng - vợ ông - yêu ông thiết tha, tự nguyện được sống và chăm lo cho ông cả đời.

Cưới vợ, ông vẫn ngày ba bữa mưu sinh bằng nghề hát rong. Vợ ông ngày ngày cày bẫm trên các thửa ruộng, góp nhặt từng hạt lúa cùng người chồng chăm lo cho hai đứa con thơ dại. Năm tháng qua đi, hai đứa con cũng xây dựng tổ ấm riêng cho mình nhưng chúng cũng nghèo rớt mồng tơi như ông. Oái ăm thay, vợ ông bỗng nhiên trở bệnh phải nằm một chỗ trên giường.

Thương vợ, từ đó ông lại đi nhiều hơn, hát đến khô nước bọt để có tiền lo thuốc men, cơm cháo cho vợ. Cả đời tôi chưa thấy ai thương vợ, lo cho vợ chu đáo như ông. Khi chính quyền địa phương khuyên ông đừng đi hát rong nữa để giữ… bộ mặt văn hóa cho làng xã, ông thực hiện ngay và chấp nhận sống cảnh đói nghèo. Hai vợ chồng ông giờ chỉ sống dựa vào khoản phụ cấp ít ỏi theo diện cứu tế thường xuyên của nhà nước và sự đùm bọc của bà con lối xóm.

Đáng quý ở chỗ, dù nghèo nhưng tình cảm mà ông dành cho bà con láng giềng và cả những người ở tận đâu xa lắc luôn tràn đầy tình thương yêu. Ngày đất nước đón nhận cuốn nhật ký của chị Đặng Thùy Trâm, ông cũng thức trắng đêm sáng tác hai bài thơ sau đó lặn lội khắp nơi tìm hỏi cho được địa chỉ của mẹ chị Trâm rồi gửi trực tiếp đến tận nhà tặng cho cụ Doãn Ngọc Trâm.

Giờ đây, hàng ngày ông vẫn quấn quýt vui - buồn bên cây đàn bầu, vẫn làm thơ, sáng tác bài hát, vẫn ngày ba bữa cơm nước, giặt giũ áo quần, tắm cho người vợ già. Âu đó cũng là cách sống đáng nể của một người già khuyết tật nghèo khổ. “Sống phải vui với đời, đừng bi quan”, ông nói...

Võ Minh Huy

Tin cùng chuyên mục