Phát huy thành tựu 10 năm đổi mới giáo dục và đào tạo - Bài 4: 10 năm cho mục tiêu tự chủ đại học

Tự chủ đại học là một chủ trương lớn, được coi là chính sách, giải pháp đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH. Thế nhưng, quá trình thực hiện tự chủ hiện chưa thoát khỏi tình trạng “trên thông dưới tắc”.

Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 (Nghị quyết 29) được xem như là cuộc cách mạng về tự chủ cho giáo dục đại học (GDĐH) phát triển khi đưa ra nhiệm vụ, giải pháp: đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của cơ sở giáo dục, đào tạo; giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cơ sở giáo dục, đào tạo; đổi mới mô hình quản lý, tiến tới xóa bỏ cơ chế cơ quan chủ quản đối với cơ sở GDĐH công lập... Thế nhưng, quá trình thực hiện tự chủ hiện chưa thoát khỏi tình trạng “trên thông dưới tắc”.

Cuộc cách mạng cho GDĐH

Từ thực tế khảo sát, giám sát, TS Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, cho rằng, tự chủ đại học là một chủ trương lớn, được coi là chính sách, giải pháp đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH theo tinh thần Nghị quyết 29.

Việc đẩy mạnh thực hiện tự chủ đại học thời gian qua đã có tác động tích cực tới hệ thống GDĐH trong thực hiện sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao gắn với phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cùng với đó, nhận thức về tự chủ đại học đã có chuyển biến tích cực, dần tạo được sự đồng thuận, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.

Từ đó, công tác quản lý, quản trị, cơ chế tài chính… cũng có nhiều thay đổi giúp hệ thống GDĐH có nhiều chuyển biến, thay đổi phù hợp với việc đẩy mạnh thực hiện tự chủ đại học. Dưới góc độ cơ quản quản lý, PGS-TS Nguyễn Anh Dũng, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ GD-ĐT) cho rằng, Nghị quyết 29 đề ra 7 quan điểm đổi mới, 9 giải pháp để đạt được 7 mục tiêu cho GDĐH.

k5a-5597.jpg
Sinh viên ngành cơ khí Trường ĐH Công thương TPHCM (1 trong 23 trường thí điểm tự chủ giai đoạn 2014-2017) học thực hành tại phòng thí nghiệm

Ngay sau đó, là sự ra đời của Nghị quyết 77/NQ-CP năm 2014 cho 23 trường thí điểm tự chủ, tiếp đến là Luật Giáo dục sửa đổi (Luật số 34 năm 2018) và Nghị định 99/NĐ-CP năm 2019 hướng dẫn thi hành Luật số 34… Những tiền đề này giúp GDĐH có sự bứt phá như giảng viên có trình độ tiến sĩ từ dưới 15% năm 2013 đến năm 2022 là trên 30% (23 trường thí điểm tự chủ hiện nay có trường trên 50% là tiến sĩ), công tác kiểm định chất lượng (từ chương trình đào tạo đến cơ sở đào tạo) từ chỗ vài cơ sở đào tạo được kiểm định đến nay đã tăng lên gần 1.000 chương trình và gần 200 cơ sở đào tạo được kiểm định. Cùng đó là hội đồng trường được thành lập, nhiều trường được xếp hạng quốc tế…

Từ thực tiễn cơ sở đào tạo, PGS-TS Ngô Thị Phương Lan, Hiệu trưởng Trường ĐH KHXH-NV (ĐH Quốc gia TPHCM), nhìn nhận, 10 năm thực hiện Nghị quyết 29, vấn đề tự chủ trong GDĐH Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực. Từ chỗ các cơ sở giáo dục chịu sự quản lý nhà nước chặt chẽ về mọi mặt thông qua Bộ GD-ĐT, các trường đại học đã dần được trao quyền tự chủ, thể hiện qua văn bản pháp quy của Nhà nước. Hiện nay, Luật số 34 và Nghị định 99 là cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy các cơ sở GDĐH thực hiện quyền tự chủ, trong đó thể hiện quyền tự chủ phải gắn liền với trách nhiệm giải trình để các bên liên quan và xã hội giám sát. Trong đó, quyền tự chủ của cơ sở GDĐH bao gồm tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự, tự chủ về tài chính, tài sản, tự chủ về học thuật và hoạt động chuyên môn.

Tập trung xóa những điểm nghẽn

Nguyên Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga cho rằng, Nghị quyết 29 đã tạo những nền tảng vững chắc để đổi mới GDĐH. Hội đồng trường đã được thành lập với thành phần đảm bảo theo luật định nhưng chất lượng hoạt động còn hạn chế, chưa phải là hội đồng quyền lực như kỳ vọng. Điển hình như tại Đà Nẵng, một vị lãnh đạo Sở GD-ĐT tham gia đến mấy hội đồng trường thì làm sao có thời gian đọc tài liệu, tham gia đóng góp ý kiến…

Do đó, để nâng cao tính tự chủ của các trường nhằm đạt được mục tiêu đổi mới mà Nghị quyết 29 đã đề ra, chúng ta cần đổi mới cách tiếp cận quyền của hội đồng trường theo hướng cơ quan chủ quản giao quyền cho hội đồng trường, vai trò của cơ quan chủ quản đối với trường giảm dần theo sự lớn mạnh và hiệu quả hoạt động của hội đồng trường. Hội đồng trường nên được tổ chức theo mô hình độc lập như các trường đại học theo mô hình mới đang được thí điểm ở nước ta. GS-TS Trình Quang Phú, Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, nhìn nhận, Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục - đào tạo Việt Nam có tầm quan trọng bậc nhất và mang tính quyết định của cuộc cải cách - nói đúng hơn là cuộc cách mạng của thời đại về đào tạo con người Việt Nam. Trong đó, tự chủ đại học là xu thế tất yếu.

Tuy nhiên, chúng ta đổi mới GDĐH nhưng luật và cơ chế chưa điều chỉnh đồng bộ nên việc cho thí điểm tự chủ là sự quyết tâm và cách làm sáng tạo của Chính phủ. “Chính phủ cần sớm tổng kết việc thí điểm tự chủ đại học cho từng trường đại học để rút ra những điều tốt và chưa tốt. Nếu thấy sai thì sửa, thấy vi phạm thì dừng lại, nếu lợi dụng thí điểm để trục lợi, tư túi thì xử lý theo pháp luật. Cũng từ đó, cần bổ sung, điều chỉnh luật và cơ chế, quy định phù hợp cho các trường đại học nói chung và giúp các trường đại học thí điểm tự chủ tiếp tục phát triển”, GS-TS Trình Quang Phú đề nghị. Theo TS Vũ Ngọc Hoàng, Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, tự chủ vẫn phải theo quy định của pháp luật.

Luật đã đưa quyền tự chủ đại học vào quy định, nhưng giữa luật này và luật khác còn không nhất quán, chưa được chỉnh sửa đồng bộ, quy định này kìm chế việc thực hiện quy định kia, mâu thuẫn và trái ngược nhau, nếu làm thì vừa đúng vừa sai, cuối cùng chẳng biết làm thế nào. Do đó, các cơ quan hữu trách cần nghiên cứu và tham mưu để chỉnh sửa đồng bộ các luật. Nên lấy Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học làm cơ sở để tham chiếu sửa các luật khác, vì đây là quốc sách hàng đầu. Tất nhiên, bản thân Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học cũng cần phải nghiên cứu chỉnh sửa để hoàn thiện.

- TS TRẦN ĐÌNH LÝ, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Nông Lâm TPHCM:

Tránh lạm dụng tự chủ

Xu hướng thành lập trường trong trường sẽ có tác động theo hướng tích cực khi phân cấp, phân quyền nhiều hơn, cả phân cấp quản lý và kinh phí, các trường đại học sẽ chủ động và phát triển theo hướng tự chủ toàn diện để nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu, chủ động đổi mới sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, mức độ thành công còn tùy thuộc vào mức phân cấp, đặc biệt là phân cấp về kinh phí hoạt động. Nếu được phân cấp về quản lý nhưng không phân cấp kinh phí sẽ là một lực cản lớn và cấp dưới có cảm giác phải gồng mình trả chi phí cho các cấp trung gian trong quản lý, sẽ tạo ra nhiều khó khăn, thách thức.

Với xu hướng tự chủ của thế giới và Việt Nam, mô hình các trường đại học đổi thành đại học và thành lập các trường trực thuộc là tất yếu. Tuy nhiên, cần thẩm định các điều kiện và năng lực đã đáp ứng yêu cầu hay chưa, phải thực chất chứ không theo trào lưu, tránh dấu hiệu... bùng phát. Nếu hội đủ điều kiện sẽ là một sự thay đổi thậm chí đột phá về quản trị đại học hiện đại; còn không, năng lực không đáp ứng, chạy theo trào lưu, lạm dụng luật cho phép thì chỉ là hình thức, chắc chắn không bền vững, thậm chí phản tác dụng.

- Bà TRẦN ÁNH NGUYỆT, chuyên gia kinh tế giáo dục (Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam):

Cần chính sách tài chính cho GDĐH

Chính sách tự chủ tài chính đồng nhất tự chủ tài chính với việc cắt giảm hỗ trợ từ ngân sách nhà nước (NSNN). Một thay đổi quan trọng về chính sách trong năm 2015 là Chính phủ đã đưa ra cơ chế để các trường đại học công lập giảm dần phụ thuộc vào NSNN và tăng cường chia sẻ chi phí. Hoàn cảnh hiện tại, Việt Nam cần tránh chuyển gánh nặng tài chính của GDĐH sang hộ gia đình/sinh viên khi mà mức chi tiêu, đầu tư công cho GDĐH còn rất thấp cũng như để hệ thống GDĐH quá phụ thuộc vào nguồn thu học phí trong khi nhóm hộ nghèo đối mặt với nhiều hạn chế, ràng buộc về tài chính.

Từ thực tế này, Việt Nam cần điều chỉnh luật, quy định chính sách liên quan tới tự chủ tài chính và trách nhiệm giải trình; tăng đầu tư với tỷ trọng NSNN chi cho GDĐH từ mức 0,23% lên ít nhất 0,8%-1% GDP trước năm 2030 nhằm hỗ trợ cơ sở GDĐH và cho người học (học bổng, chính sách miễn giảm, tín dụng); tăng đầu tư NSNN (từ 18% lên 30%) cho nghiên cứu và phát triển các đại học, trường đại học tương xứng với tỷ trọng nhân lực và tiềm năng nghiên cứu phát triển; huy động nguồn lực bổ sung từ doanh nghiệp, khu vực tư nhân qua phương thức đối tác công tư và đa dạng hóa nguồn thu.

Tin cùng chuyên mục