Thị trường Anh là “mỏ vàng” của nông sản Việt Nam

Tham tán thương mại Nguyễn Cảnh Cường thuộc Thương vụ Việt Nam tại Anh và Bắc Ireland chia sẻ, hiện thị trường Anh đang có nhu cầu lớn về nông sản chất lượng cao và Thương vụ Việt Nam tại nước này sẵn sàng hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội. 
Đóng gói chôm chôm xuất khẩu tại một doanh nghiệp ở huyện Chợ Lách, Bến Tre. Ảnh: HỒ NGON

Theo Thương vụ Việt Nam tại Anh và Bắc Ireland, hàng năm, các doanh nghiệp của Anh nhập khẩu một lượng lớn rau quả nông sản để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường. Năm 2020, Anh nhập khẩu hơn 5,7 triệu tấn rau quả trị giá gần 6,4 tỷ bảng Anh (khoảng 9 tỷ USD). 

Trong đó, lượng rau quả từ Việt Nam đạt trị giá 11.597.093 USD, mới chỉ chiếm thị phần 0,18%.

Cũng trong năm 2020, nhập khẩu trái cây vào Anh đạt 3,6 triệu tấn với giá trị 3,9 tỷ bảng Anh (khoảng 5,4 tỷ USD). Dẫn đầu là chuối (chiếm 29,5% tổng lượng trái cây nhập khẩu) chủ yếu đến từ Colombia và Costa Rica. Kế đến là nho (chiếm 12% thị phần) chủ yếu đến từ Nam Phi và Tây Ban Nha. Đứng thứ ba là cam, quýt và quả có múi khác chủ yếu đến từ Tây Ban Nha và Peru.

Nhập khẩu gạo vào Anh năm 2020 tăng thêm 13,5% từ 671.601 tấn (năm 2019) lên 762.526 tấn. Trong đó, gạo nhập từ Việt Nam đạt 3.396 tấn, trị giá 1.295.000 USD, mới chỉ chiếm 0,45% thị phần.

Anh là quốc gia nhập khẩu hạt điều lớn thứ ba và là thị trường tiêu thụ hạt điều lớn thứ hai ở châu Âu. Năm 2020, hạt điều nhập khẩu vào Anh đạt 23.000 tấn. Trong đó, hạt điều từ Việt Nam đạt hơn 16.000 tấn, trị giá hơn 92 triệu USD, chiếm 71% thị phần.

Năm 2020, nhập khẩu hạt tiêu vào Anh đạt gần 14.000 tấn, trị giá 121 triệu USD, trong đó có 5.621 tấn từ Việt Nam, trị giá hơn 48 triệu USD, chiếm gần 40% thị phần.

Năm 2020, nhập khẩu cà phê vào Anh đạt gần 1 tỷ USD. Trong đó, cà phê từ Việt Nam đạt 27.915 tấn, trị giá hơn 48 triệu USD, chiếm gần 5% thị phần cà phê nhập khẩu vào Anh.

Theo Thương vụ Việt Nam tại Anh và Bắc Ireland, thị trường Anh là lớn nhưng doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể tiếp cận thị trường này khi và chỉ khi thực hành sản xuất theo GlobalGAP hay EuroGAP và áp dụng các quy chuẩn quản trị quốc tế như ISO, SA và ILO. 

Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam phải có khả năng đảm bảo nguồn cung ổn định cả về số lượng và chất lượng để phát triển quan hệ hợp tác bền vững với các đối tác của Anh. Để có thể thiết lập được cơ sở và mở rộng thị phần bền vững tại Anh, bên cạnh các đối thủ cạnh tranh mạnh đến từ Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Nam Phi và Ấn Độ, ông Nguyễn Cảnh Cường cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam còn phải có chiến lược tiếp cận thị trường phù hợp. 

"Thương vụ Việt Nam tại Anh với sự hỗ trợ của các chuyên gia marketing sở tại sẵn sàng đồng hành cùng doanh nghiệp Việt Nam", ông Nguyễn Cảnh Cường chia sẻ. 

Hiệp định UKVFTA đã giúp nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trên thị trường Anh so với các sản phẩm cùng loại có xuất xứ từ các nước chưa có FTA với Anh. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể tận dụng được lợi thế cạnh tranh này nếu sản phẩm đáp ứng được yêu cầu chất lượng theo tiêu chuẩn Anh và phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Anh. Các doanh nghiệp Việt Nam phải rất nỗ lực mới có thể vượt qua thách thức này.

UKVFTA đã có hiệu lực đầy đủ nhưng cơ hội không chờ đợi ai và có thể không kéo dài vì Anh sẽ gia nhập CPTPP trong tương lai không xa và đang tích cực theo đuổi các FTA song phương với các đối tác thương mại lớn.

Tin cùng chuyên mục