“Tứ hành xung”

“Tứ hành xung”

Chị tuổi Dần, anh tuổi Thân, anh chị yêu thương nhau từ những buổi cùng ra đồng, đập lúa, đốt rạ, nướng khoai. Thời ấy, con gái tuổi Dần đã khó lấy chồng vì tiếng “cao số” vậy mà chị còn vướng phải cái điều “đại kỵ”: Dần, Thân, Tỵ, Hợi – Tứ hành xung.

Hai bên gia đình phản đối kịch liệt, chị chỉ biết khóc tức tưởi, mấy lần đòi chia tay. Anh thương chị, cũng mấy lần định cùng nhau bỏ trốn đi xa nhưng chị không dám, vì yếu đuối, vì danh dự gia đình. Cuối cùng, anh bàn với chị nói dối là lỡ có bầu, ép gia đình phải cưới “chạy thai”. Danh dự cả đời con gái làm sao chị có thể đánh mất, rồi một mai cưới nhau, gia đình chồng còn coi chị ra gì nữa, nghĩ thế nên chị không chấp nhận. Anh buồn đau, phát bệnh nặng, cả tháng trời không khỏi. Chị cũng ra ngẩn vào ngơ, đứng ngồi không yên vì nhớ thương, lo lắng.

Tình yêu đã cho chị thêm sức mạnh, chị lấy hết can đảm quỳ xuống chân cha mình mà “thú tội” rằng: “Con đã lỡ có thai!”. Cha chị đi lấy cái roi làm bằng đuôi con cá đuối phơi khô, thân nham nhám gai, nhỏ như chiếc đũa, rồi bắt chị nằm úp mặt trên phản. Cha chị cứ lăm lăm cái roi trên tay, vừa khóc vừa mắng, lâu lâu lại quật roi chan chát xuống phản, nhưng không dám quật trúng chị, vì sợ ảnh hưởng đến thai. Chị thương cha, thân gà trống nuôi con, cả đời thanh bạch, bao thương yêu, tự hào, kỳ vọng cha dành hết cho đứa con gái duy nhất là chị, vậy mà chị lại…

Minh họa: Kao Vân

Minh họa: Kao Vân

Giận thì giận, thương cứ thương, cha chị cũng đành phải sửa soạn quần lĩnh, áo the dắt chị sang nhà anh thưa chuyện. Biết chị “mang bầu”, gia đình anh không tiếc lời miệt thị. Anh đau lòng, định ra mặt thanh minh nhưng không thể vì đó là cách duy nhất để anh chị được bên nhau. Anh chị chỉ còn biết quỳ khóc mà xin cha mẹ thương tình.

Rồi gia đình anh cũng “hạ mình” chịu cưới. Đám cưới được tổ chức rình rang cho xứng với nhà anh - “ruộng vườn cò bay thẳng cánh”. Chỉ thương cho chị, ngày hôn lễ không được rước dâu qua cổng chính kết hoa vì lẽ cưới “chạy thai”… Theo phong tục cưới “chạy thai”, cô dâu phải chui qua một cái lỗ rào để vào nhà chồng, không có rào thì người ta dựng tạm rồi khoét lỗ. Càng không được bái lạy trước bàn thờ gia tiên vì như thế là… “ô uế”. Để “đốt” bớt cái số “cầm chồng”, chị phải bước qua bước lại 9 chậu than hồng. Còn chưa kể biết bao nhiêu “chiêu” để “giải tứ hành xung” mà mẹ anh đã cất công đi “cầu thầy” bày vẽ.

Tủi nhục, đớn đau, vậy mà chị cắn răng cam chịu, không rơi một giọt nước mắt, vì sâu thẳm trong lòng người con gái quê nghèo vẫn lo sợ mình cầm tinh “ông Hổ” là số sát chồng. Chị lo cho chồng nên nghĩ “giải được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu!”.

Về nhà chồng, chị lo lắng đủ mọi bề để cung phụng cha mẹ chồng. Anh chị cũng tỏ tường sự thật cho hai bên gia đình biết. Mẹ anh cũng không đến nỗi cay nghiệt nên thương dâu ngoan mà dần nguôi ngoai giận. Anh cảm phục đức hy sinh của chị nên càng trân trọng, yêu thương.

Gia đình nào chẳng có lúc “cơm không lành canh không ngọt”, anh chị đôi khi lục đục, gây nhau nhưng rồi cũng dàn xếp êm xuôi, ổn thỏa. Có với nhau mấy mặt con, anh vẫn thường hay đùa với chị: “Sao người ta nói số mình “ăn thịt” tôi mà tôi vẫn to khỏe phây phây nhỉ?”. Con cái trưởng thành, lập nghiệp, lấy vợ lấy chồng, chỉ còn anh chị hôm sớm chăm vườn, nuôi gà nuôi vịt. Những khi giỗ, tết các con hội về đông đủ, trong bữa cơm chan chứa tình thân anh chị vẫn hay nhắc về câu chuyện xưa cũ, rồi anh hay cười lớn và rằng: “Ba với má mày chỉ mới “Nhị hành xung”, chưa phải “Tứ hành xung!”.

Phan Đông Ninh

Tin cùng chuyên mục