Vợi thương chén mẻ quê nhà

Trời chưa hửng sáng, má đã dậy từ lâu, tỉ mẩn lấy từng cái chén, tô, dĩa sành đem ra thềm giếng rửa sạch bụi năm cũ, kịp nắng lên hong khô thơm gió sớm. Đã bao nhiêu mùa xuân đi qua cửa, nước men sành nơi góc bếp cũng sáng lên bấy nhiêu dẫu năm tháng đã để lại vài vết mẻ!

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Nam
  • Nữ miền Nam
  • Nữ miền Bắc
  • Nam miền Bắc
tet-146.jpg
Trong một sớm mùa xuân vừa chạm ngõ, má lại tỉ mẩn rửa đi vết bụi thời gian trên chén mẻ quê nhà

Hình như gia tài má chỉ có ngần ấy, là chạn bếp với giỏ chén tô. Mỗi thứ chỉ có hai ba cái đồng bộ, nhưng má vẫn thường ghép lại với nhau sao trông dễ coi nhất. Dường như đã thành lệ, mỗi bận cùng má rửa bên thềm giếng, rửa đến cái nào thì y như rằng đều thành câu chuyện. Này là hai cái dĩa hình con gà có nước men xanh mực, cùng với chục chén men đục, chạy chỉ xanh ngoại cho lúc má lấy chồng.

Thời loạn lạc, ba bắt xe lam về quê trước còn má theo xe ngựa của những người buôn hàng xén đi sau. Xe qua sông đang mùa nước cạn, lô nhô đá, mấy bà hàng khô giục chủ xe đi nhanh để kịp về trước khi trời tối, mấy cái chén dù đã được lót rơm vẫn xô lệch, mẻ đi vài góc. Kia là chồng dĩa to nhỏ khác nhau có hình cây trúc với năm ông già là của bà nội mang theo lúc cùng ông về xứ nắng hạn mưa vùi này.

Trong ký ức về tuổi thơ đầy thiếu thốn của ngày tháng cũ, tôi không bao giờ quên những lần lỡ tay vỡ một vài cái chén, hay chiếc dĩa sành. Sợ má la, tôi giấu khi thì nơi góc bồ lúa, lúc ở trong đống củi mục sau nhà. Nhưng trước sau gì má cũng biết. Má chẳng la, má chỉ tần ngần cầm mấy cái mảnh sành, ánh nhìn không nỡ…

Rồi những mùa lụt tháng mười, cái tháng mà má lúc nào cũng dè chừng vì lẽ "Ông tha nhưng bà chẳng tha/ Còn sợ cái lụt hai ba tháng mười". Mưa gió liên hồi, nhà nào cũng lo chụm củi thâu đêm, làm cái gác bằng cây để những nong, sàn lúa lên trên sấy, kịp có gạo ăn giáp vận. Thế nhưng tháng mười cũng có niềm vui riêng vì có lúa mới, lại thêm lửa củi sẵn, má kêu gom mấy cái chén “bánh bèo”, loại chén nhỏ chỉ bằng phân nửa chén ăn cơm màu trắng đục có đường men màu chàm chạy chung quanh miệng. Má tra thanh quay mới, xay ít gạo bằng cái cối đá. Rồi má múc bột đổ vào từng chén nhỏ, hấp trên chiếc nồi cả đang sôi nước. Bột gạo chín có một xoáy nhỏ đều đặn nơi giữa chén. Ngoài trời mưa như trút, gian bếp đầy hơi khói và má rót mắm nhỉ để cả nhà ăn với bánh. Mùi bột gạo, mùi mắm nhỉ cá cơm, mùi củi ướt khói lên…, tất cả quyện vào nhau thành thứ mùi không thể diễn tả, rất đằm sâu và lắng đọng.

Nhưng nhớ nhất là những ngày cuối Chạp, khi má bắt đầu mở cái khạp sành nâu bóng, trút mớ nếp Quạ Đen ra phơi, soạn giỏ chén sành ra thềm giếng, cũng là lúc Tết đã cận kề. Cả năm đếm đong dè sẻn, sao cho vụ lúa To Đá tháng ba vừa hết, cũng là lúc thu lúa Đồng Nai vụ mười về kịp. Riêng mớ nếp Quạ Đen má cấy riêng trên một góc ruộng, mùa làm đòng gió bay lộn giống, má cẩn thận lựa từng gié một đủ vừa một thạp để làm xôi đậu giao thừa. Để có nồi xôi ngon, má chụm đều lửa, nồi đồng sôi sắp tràn má chắt vào cái tô sành rồi vần ngay xuống tro than ấm nóng. Tôi ôm khư khư cái tô trong lòng, nhìn lớp nước thơm quánh sóng sánh miệng tô. Khi tôi uống đến giọt cuối cùng, hình con cá bằng men lam dưới đáy tô ánh lên bên bếp lửa hừng đông tháng Chạp.

Ở quê, người dân có thông lệ hễ có vật sành sứ nào bị vỡ, họ sẽ gom lại, bỏ vào gốc một bụi cây duối to cách xa nhà. Sau này tôi mới biết rằng, ngoài việc sợ trẻ con giẫm phải mảnh vụn, những mảnh sành vỡ kia đã từng gắn liền với mỗi người, là quà cưới, là của hồi môn, là kỷ niệm… Và dẫu chẳng còn vẹn nguyên, vẫn cứ chân phương im lặng ở một góc nào.

Ngày tôi lấy chồng, tôi xin má mấy chiếc dĩa trúc xanh. Trên nước men bóng thời gian ấy, luôn phản chiếu ánh nhìn của má. Hơn mười năm dẫu mải mê vun vén tổ ấm riêng mình nơi xô bồ phố xá thế nhưng mái nhà xưa vẫn là nơi yên bình nhất để trở về mỗi khi sắp cạn ngày năm cũ. Mái hiên bây giờ lợp tôn thay cho những tấm liếp mưa nhỏ giọt tranh thuở nào. Chỉ có những bữa cơm quê vẫn thanh đạm và bình yên như cũ. Má ngồi trên thềm, quần xắn ngang gối và niềm vui dâng đầy trong mắt. Má xới cơm cho từng đứa, vẫn những chén những tô những dĩa với một vài vết mẻ. Tôi cầm cái chén men trong tay như nâng niu kỷ niệm, vì tôi biết rằng, mỗi một cái chén quê kia là cả một câu chuyện của ký ức.

Rồi tôi sẽ tiếp tục kể câu chuyện của má cho những đứa con của mình, vì biết đâu trên đường đời xô bồ toan tính, sẽ có lúc tụi nhỏ mải mê áo cơm mà quên đi nguồn cội? Năm nay tết lại cận kề, tôi lại về nhà để lau cái chạn bếp ám đầy muội khói, lau đi vết bụi thời gian trên chén mẻ quê nhà…

PHƯƠNG BỐI

Tuy Hòa, Phú Yên

Tin cùng chuyên mục