
Đầu năm 2007, hai nghệ sĩ ở 2 đầu đất nước là Lê Phức và Văn Lưu đã ra đi, để lại sự tiếc thương cho gia đình, đồng nghiệp và công chúng. Báo SGGP xin trích đăng bài viết của nghệ sĩ Vũ Đức Tân và nhạc sĩ Lư Nhất Vũ về Lê Phức và Văn Lưu.

Nhạc sĩ Văn Lưu.
Ảnh: LƯ NHẤT VŨ
Giữa năm 1962, sau khi tốt nghiệp Khoa sáng tác Trường Âm nhạc Việt Nam, tôi được về nhận công tác ở Đoàn Ca múa miền Nam tại Khu Văn công Cầu Giấy, Hà Nội. Tôi sinh hoạt trong đội nhạc do Văn Lưu làm đội trưởng.
Sáu năm học tại Trường Âm nhạc (1956 – 1962), tôi chưa có điều kiện tiếp xúc với anh Văn Lưu. Tôi chỉ biết anh là tác giả bài hát Em bé bán chè, sáng tác trong kháng chiến chống Pháp.
Và tôi “bái phục” anh viết về Cô đẩy xe goòng trong chuyến đi thực tế sáu tháng cùng với nhà thơ Huy Cận về Khu mỏ Hồng Gai – Cẩm Phả.
Ngày 5-8-1964, xảy ra “sự kiện vịnh Bắc bộ”. Đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc.
Hội Nhạc sĩ Việt Nam thành lập hai đội xung kích. Đội đi về khu mỏ Quảng Ninh do nhạc sĩ Đỗ Nhuận phụ trách. Đội vào khu IV do nhạc sĩ Văn Ký chỉ huy, gồm có: Quốc Hương, Nhật Lai, Văn Lưu, Văn Luyện, Phan Vân, Lư Nhất Vũ, Trung Kiên, Bích Hường, Trương Châu Mỹ, Ngô Thị Liễu (Mỹ An), Hồng Loan (violon), Phạm Thị Bê (arcordéon).
Chúng tôi đến Nghi Xuân tỉnh Nghệ An, biểu diễn phục vụ bộ đội bên trận địa pháo phòng không, rồi viếng mộ cụ Nguyễn Du. Trên đường vô thị xã Đồng Hới, đoàn ghé thăm bệnh viện dã chiến, hát vài bài động viên thương binh hải quân trong trận đánh đuổi hạm đội Mỹ vừa qua.
Quốc Hương với bài Tiểu đoàn 307, Trung Kiên với Tình ca của Hoàng Việt, Bích Hường với Bài ca người săn máy bay, Phan Vân nhảy lên bàn tấu hài Phượng hoàng gãy cánh khiến anh em thương binh có người chỉ còn một cánh tay, vẫn cười ngặt nghẽo, vừa đập bàn tay còn lại vô vách để tán thưởng.
Năm 1965, trong căn buồng nhỏ được ngăn vách cót bên cạnh buồng tôi ở, bỗng có tiếng phong cầm nổi lên cùng giọng hát khàn đục của hai người. Tôi tò mò nghe ngóng, rồi được hai người rủ qua tham khảo ý kiến. Đó là nhạc sĩ Văn Lưu và nhạc sĩ Triều Dâng, hai vị đang phác thảo ca khúc Ta là chiến sĩ giải phóng quân.
“Người chiến sĩ ra đi vượt dốc băng sông xuyên rừng lội suối (đi). Ta ra đi dù chân không giày mà đầu đội trời, ta cứ đi…”.
Chúng tôi thấm ý đều cười rộ lên vui vẻ. Hai ông bạn muốn tả cái khí phách của anh bộ đội Cụ Hồ là “chân đạp đất – đầu đội trời” cho thêm vẻ hiên ngang hào hùng.
Chỉ trong vòng hai năm (1964 – 1965) một chùm ca khúc gồm ba bài: Bài ca người săn máy bay, Nữ dân quân miền biển, và Ta là chiến sĩ giải phóng quân… đã thể hiện bút pháp đặc trưng mang phong cách Văn Lưu.
Những giai điệu uyển chuyển cùng các bước nhảy đột ngột bất ngờ, kết hợp đan xen các biến phách (nhịp ngoại) và ngắt câu… đã tạo nên hiệu quả lôi cuốn người nghe.
Có những câu gần như giữa hát và nói, có những môtíp trữ tình hòa quyện với những môtíp khỏe khoắn; giai điệu gần như luân phiên xuất hiện giữa âm với dương, giữa nhu với cương, giữa hưng phấn và ức chế… tránh được sự nhàm chán.
Dù qua các thời kỳ, từ cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đến những năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất đất nước, những tác phẩm của anh Văn Lưu vẫn ngày càng đậm đà bản sắc dân tộc, kế thừa và phát huy vốn âm nhạc truyền thống Việt Nam (đặc biệt là dân ca Nam bộ, ca nhạc tài tử và cải lương). Những ca khúc của anh vẫn mang hơi thở của thời đại: trẻ trung và năng động.
Anh là tác giả của hàng trăm ca khúc, ca ngợi đất nước, con người, nhất là quê hương Nam bộ.
Những năm thực tập tại Nhạc viện Ôđétxa thuộc Ukraina, nhạc sĩ Văn Lưu đã hoàn thành một số tiểu phẩm cho violon, piano (Dòng kinh Tháp Mười, Dòng sông quê tôi). Đáng kể nhất là bản sônát ba chương với tiêu đề Mảnh đất quê hương.
Nhạc sĩ Văn Lưu còn viết nhạc nền cho nhiều vở múa rối, như: Con thỏ ngọc (của Lưu Hữu Phước), Bầy gấu con vui tính (1957); soạn nhạc cho vở Ngôi sao lửa của Phan Vũ (1978); viết nhạc và bài hát cho vở cải lương Tiên Sa Gành Ráng (1983), Anh hùng bán than (1985).
Có thể nói rằng: “Bước vào thời kỳ chống Mỹ cứu nước, thực tiễn hào hùng và sinh động đã tạo cho Văn Lưu nhiều cảm xúc mãnh liệt và những ca khúc thành công nhất của anh ra đời.
Với đề tài chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, ca khúc Bài ca người săn máy bay sôi nổi, lạc quan mang tính hành động rõ nét tiêu biểu cho tinh thần chiến đấu của quân dân ta.
Tiếp theo là ca khúc Nữ dân quân miền biển tự hào, khỏe khoắn mà không mất đi vẻ duyên dáng của các cô gái miền biển, và ở Ta là chiến sĩ giải phóng quân (viết cùng Triều Dâng) là nhịp đi trầm tĩnh đầy thúc giục.
Những ca khúc này đã được Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, các đoàn văn công phổ biến rộng rãi và thu được nhiều cảm tình của công chúng”. (*)
Nhạc sĩ Văn Lưu tên thật là Đoàn Lý Ân, sinh ngày 12-3-1928 (Mậu Thìn), tại xã Điều Hòa, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Năm 15 tuổi, với năng khiếu âm nhạc sẵn có, anh được ông dượng và cha chỉ bảo, dạy đàn. Dần dà, anh đã chơi thạo đàn kìm, đàn tranh và guitar phím lõm với những bài bản Sáu Bắc, Nam ai, vọng cổ.
Đến năm 1945, anh mày mò học chơi đàn mandoline, guitar, espagnol. Sau đó, thấy anh có năng khiếu nên nghệ sĩ Tư Xe, Ba Du, Tám Danh tuyển anh vào Đoàn ca kịch khu 8, đóng tại Thiên Hộ Đồng Tháp Mười. Anh là một trong những nhạc công của đoàn, lúc ấy còn có nhạc sĩ Huê Nhu, Hoàng Việt, Nguyễn Hữu Trí.
Năm 1951, Nam bộ được phân chia làm hai khu: miền Đông và miền Tây. Hoàng Việt và một số nghệ sĩ được chuyển lên miền Đông. Văn Lưu cùng Tư Xe, Quang Hải (Bé Năm) chuyển về miền Tây. Anh về công tác tại Tỉnh đội Bạc Liêu. Anh vừa sử dụng nhạc cụ vừa ca hát và bắt đầu sáng tác.
Đến năm 1955, khi tập kết ra Bắc, anh học khóa bồi dưỡng âm nhạc trung cấp đầu tiên của Bộ Văn hóa, dưới sự hướng dẫn của các thầy cô: Nguyễn Xuân Khoát, Tạ Phước, Tô Vũ, Lê Yên, Thái Thị Liên.
Sau khi tốt nghiệp anh về công tác tại Nhà hát múa rối T.Ư. Năm 1960 – 1961 anh giảng dạy ở Trường Bổ túc âm nhạc Bộ Văn hóa rồi trở về Đoàn Ca múa miền Nam, vừa có chân trong Ban phụ trách vừa làm đội trưởng đội nhạc.
Sau khi đi thực tập ở Ôđétxa, về nước anh công tác tại Đoàn ca nhạc Đài Phát thanh Giải phóng (1971) và sau 30-4-1975 anh làm Trưởng đoàn ca nhạc Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam cơ sở II tại TPHCM. Từ năm 1980 anh trở về quê hương Tiền Giang và phụ trách ngành nhạc của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Tiền Giang.
Đoàn Lý Ân là một cái tên rất đẹp với tuổi Thìn “rồng bay phượng múa”. Hơn nửa thế kỷ cuộc đời gắn bó với hoạt động âm nhạc, nhạc sĩ Văn Lưu đã đóng góp nhiều tác phẩm có giá trị qua các giai đoạn lịch sử.
LƯ NHẤT VŨ
- NSNA Lê Phức, “Đất và người”
(*) Trích Nhạc sĩ sáng tác Việt Nam, tập hai, Hội Nhạc sĩ Việt Nam – NXB Âm nhạc và ĩa hát, Hà Nội; 1989, trang 99.