
Nhằm hỗ trợ sinh kế bền vững cho người dân vùng đệm, Vườn quốc gia Chư Mom Ray (tỉnh Quảng Ngãi) triển khai thí điểm mô hình nuôi ong bản địa và thương mại hóa sản phẩm mật ong tại các xã vùng đệm vườn quốc gia.
Mô hình được thực hiện từ tháng 1-2024 đến tháng 8-2025 tại xã Sa Thầy, tỉnh Quảng Ngãi. Dự án hỗ trợ 2 tổ hợp tác nuôi ong là Sa Sơn và Sa Nhơn (xã Sa Thầy) theo chuỗi giá trị từ chăn nuôi đến tiêu thụ sản phẩm, hướng đến phát triển kinh kế xanh, bảo tồn tài nguyên và nâng cao năng lực phát triển kinh tế cộng đồng địa phương. Hai tổ có 30 thành viên tham gia, đều là người dân sinh sống ở vùng đệm vườn quốc gia, được tập huấn kỹ thuật nuôi ong, hỗ trợ ong giống, thùng nuôi, xây dựng thương hiệu sản phẩm và kết nối thị trường tiêu thụ.
Tại khu vực nuôi ong của Tổ hợp tác Sa Nhơn, những ngày này, ông Nguyễn Hồng Châu (tổ trưởng) tất bật chăm sóc đàn ong. Vị trí đặt tổ nuôi ong giáp ranh với lâm phần Vườn quốc gia Chư Mom Ray quản lý. Những thùng ong xếp ngay ngắn, tiếng ong vo ve rộn ràng.
Ông Nguyễn Hồng Châu cho biết, tổ có 15 hộ tham gia, được hỗ trợ 20 thùng ong giống. Vụ đầu tiên đã thu được 70 lít mật, chi phí chỉ 2 triệu đồng, thu nhập gấp 10 lần chi phí đầu tư. “Nuôi ong rất nhàn, không tốn nhiều công sức, lại tăng thu nhập. Sắp tới chúng tôi sẽ mở rộng quy mô”, ông Nguyễn Hồng Châu nói.
Còn ông Trần Văn Kiên, Tổ phó Tổ hợp tác nuôi ong Sa Sơn (xã Sa Thầy), cho biết, tổ hiện có 15 thành viên, được vườn hỗ trợ tập huấn kỹ thuật và cung cấp đàn ong giống. Dù chưa có nhiều kinh nghiệm, nhưng ngay trong năm đầu tiên, tổ đã thu được 80 lít mật ong. Mô hình này có chi phí đầu tư không cao, dễ chăm sóc, mang lại hiệu quả bước đầu. Bây giờ, ngoài làm công việc chính, các thành viên tổ còn nuôi ong để kiếm thêm tiền. Thời gian tới, tổ sẽ tiếp tục phát triển thêm đàn ong nhằm nâng cao thu nhập cho các thành viên.
Theo ông Đào Xuân Thủy, Giám đốc Vườn quốc gia Chư Mom Ray, muốn bảo vệ rừng, cần có sự tham gia của người dân. Người dân sẽ chung tay khi thấy lợi ích gắn liền với trách nhiệm. Từ quan điểm đó, vườn đã triển khai hỗ trợ người dân vùng đệm nuôi ong lấy mật, tạo sinh kế ngay tại nơi họ sinh sống, để họ vừa có nguồn thu nhập ổn định, vừa có động lực bảo vệ rừng. Mô hình nuôi ong không chỉ giúp cải thiện đời sống mà còn hạn chế tình trạng vào rừng khai thác mật ong, vốn tiềm ẩn nguy cơ cháy rừng và tai nạn. Đây chính là giá trị lớn nhất của mô hình, khi gắn lợi ích kinh tế với trách nhiệm bảo tồn.
“Ngoài ra, mô hình còn góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, về tầm quan trọng của hệ sinh thái rừng. Người dân không còn phá rừng. Thời gian tới, vườn quốc gia sẽ phối hợp các đơn vị để mở rộng mô hình, giúp nhiều hộ dân vùng đệm tham gia, tạo thành phong trào cùng giữ rừng. Bên cạnh đó, sẽ kết nối, hỗ trợ người dân xây dựng sản phẩm OCOP cho mật ong, qua đó nâng cao giá trị”, ông Thủy nhấn mạnh.