Khơi dậy sức sống mới cho ngành nghề nông thôn và làng nghề truyền thống

Ngày 25-9, tại Đà Nẵng, Bộ NN-MT tổ chức Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Nghị định số 52/2018/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn và 3 năm thực hiện Quyết định số 801/QĐ-TTg về Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021-2030.

Nhiều sản phẩm đã lọt vào Top xuất khẩu tỷ USD. Ảnh: XUÂN QUỲNH
Nhiều sản phẩm đã lọt vào Top xuất khẩu tỷ USD. Ảnh: XUÂN QUỲNH

Báo cáo của Bộ NN-MT cho thấy, sau 6 năm triển khai Nghị định 52 và gần 3 năm thực hiện Chương trình bảo tồn ngành nghề nông thôn và làng nghề truyền thống đã mang lại giá trị kinh tế và giữ vai trò bảo tồn, lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là lực lượng quan trọng góp phần vào tăng trưởng xanh, bền vững, tạo sinh kế ổn định cho hàng triệu lao động nông thôn.

Tổng doanh thu từ hoạt động ngành nghề nông thôn đạt 376.697 tỷ đồng, tăng 200.442 tỷ đồng so với năm 2019.

Hiện nay, cả nước có 263 nghề truyền thống, 1.975 làng nghề và làng nghề truyền thống được công nhận (gồm 1.308 làng nghề và 667 làng truyền thống). Lực lượng lao động trong ngành nghề nông thôn đạt hơn 2,1 triệu người, tăng 789.000 lao động so với năm 2019. Thu nhập bình quân đạt 4-5 triệu đồng/người/tháng, cao gấp đôi lao động thuần nông. Đáng chú ý, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ chiếm tới 35% kim ngạch xuất khẩu hàng năm.

Ngoài ra, 46/63 tỉnh, thành phố đã ban hành chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn. Hơn 300 làng nghề đã được hỗ trợ xúc tiến thương mại, phát triển thương hiệu, tham gia hội chợ trong và ngoài nước. Khoảng 27.000 người được đào tạo, tập huấn nâng cao tay nghề và quản trị sản xuất, trong đó có nhiều lớp dành riêng cho cán bộ hợp tác xã và nghệ nhân.

z7048604046302_2352e329df0045ef21d0bd5c6d6071c6.jpg
Toàn cảnh hội nghị. Ảnh: XUÂN QUỲNH

Tuy nhiên, quá trình triển khai cũng bộc lộ nhiều hạn chế: chính sách hỗ trợ còn phân tán, chưa tạo động lực đủ mạnh cho đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và hội nhập thị trường quốc tế. Mô hình quản lý, đào tạo nghề, truyền dạy và xây dựng thương hiệu còn thiếu liên kết.

Theo ông Lê Bá Ngọc, Phó Chủ tịch Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, để ngành nghề nông thôn vươn ra thế giới, cần tập trung vào 4 trụ cột: xây dựng vùng nguyên liệu bền vững; tổ chức sản xuất hợp chuẩn quốc tế; khuyến khích sáng tạo, thiết kế sản phẩm mới và đẩy mạnh xúc tiến thương mại gắn với chuyển đổi số.

Ông Ngọc cũng đề xuất thành lập Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia về thủ công đặt tại những địa phương có thế mạnh để hỗ trợ nghệ nhân và doanh nghiệp. Cần xây dựng bảo tàng thủ công nhằm lưu giữ và quảng bá giá trị truyền thống, đồng thời trao quyền nhiều hơn cho hiệp hội để họ có công cụ gắn trách nhiệm và thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

Ở góc độ nghệ nhân, ông Nguyễn Hữu Quả (làng tranh Đông Hồ, tỉnh Bắc Ninh) cho rằng, nếu không có chính sách hỗ trợ kịp thời, nguy cơ mai một rất lớn. Ông kiến nghị Nhà nước cần có chế độ đãi ngộ để nghệ nhân có thể sống được với nghề, mở rộng các hoạt động trải nghiệm và gắn kết làng nghề với giáo dục để tăng thu nhập, khơi dậy sự quan tâm của thế hệ trẻ.

Trong khi đó, ông Huỳnh Phương Đỏ, nghệ nhân điêu khắc gốc tre (trú phường Hội An, TP Đà Nẵng) cho rằng, để nghề truyền thống thích ứng với đời sống hiện đại, cần sự kết hợp giữa thủ công mỹ nghệ và du lịch, đồng thời đẩy mạnh quảng bá qua mạng xã hội.

Ông Võ Văn Hưng, Thứ trưởng Bộ NN-MT khẳng định, đây là lĩnh vực vừa mang giá trị kinh tế, vừa chứa đựng bản sắc văn hóa. Vì vậy, muốn phát triển bền vững phải khơi dậy nguồn lực trí tuệ, nghệ nhân, thợ giỏi cũng như đội ngũ lao động ở nông thôn.

Ông Hưng cho rằng làng nghề Việt Nam có nhiều tiềm năng để quốc tế hóa giá trị, nhưng muốn làm được thì tổ chức sản xuất phải được đổi mới, mạnh dạn trao thêm vai trò cho các hiệp hội ngành nghề, biến họ thành hạt nhân gắn kết cộng đồng và thúc đẩy thị trường.

z7048604576018_54bc3897d21c4cde6f06b3e627d2da16.jpg
Ông Võ Văn Hưng, Thứ trưởng Bộ NN-MT. Ảnh: XUÂN QUỲNH

Thứ trưởng Võ Văn Hưng đề nghị chuẩn hóa quy trình công nhận làng nghề, gắn tiêu chí phát triển với yêu cầu về kinh tế, môi trường, văn hóa, du lịch; xây dựng vùng nguyên liệu theo hướng hữu cơ, tuần hoàn; tăng cường quảng bá, kết nối thị trường, nâng cao giá trị sản phẩm. Đồng thời, cần đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực, tôn vinh và có chính sách đãi ngộ nghệ nhân và ươm tạo thế hệ kế cận.

Tin cùng chuyên mục