
Kéo theo nhu cầu cấp nước, thoát nước, năng lượng, thông tin và mật độ giao thông trên 1km2 gấp 17 lần cả nước. Thế nhưng, cùng với tốc độ tăng trưởng trên, hạ tầng bảo vệ môi trường của thành phố thời gian qua chưa được đầu tư đúng mức.
Nhiều bất cập
Trao đổi về vấn đề này, nhiều chuyên gia môi trường đồng thuận khi cho rằng, điển hình nhất là hệ thống hạ tầng tiếp nhận và xử lý nước thải đô thị. Hiện tổng công suất xử lý nước thải đô thị của các nhà máy hiện hữu chỉ xử lý được 13% tổng lượng nước thải của thành phố. Khối lượng còn lại chưa qua xử lý nhưng đã thải bỏ ra môi trường chính là nguyên nhân khiến chất lượng nguồn nước kênh rạch thành phố bị ô nhiễm. Chưa hết, mạng lưới thoát nước cũng đang quá tải vì cường độ mưa tăng cao do hiện tượng biến đổi khí hậu.
Quản lý hệ thống thoát nước chưa đáp ứng theo quy hoạch nhưng đến nay vẫn chưa được xem xét giải quyết thỏa đáng; chưa có sự đánh giá đồng bộ và tổng hợp giữa các đơn vị liên quan trong quy hoạch các cơ sở hạ tầng về vị trí, quy mô, mạng lưới, tính tối ưu trong vận hành… Với những nhà máy xử lý nước thải hiện tại cũng chưa thực hiện được yêu cầu xã hội hóa công tác vận hành nên chi phí chưa được sử dụng hiệu quả.
Hệ thống quan trắc tự động giám sát chất lượng nguồn nước và các nguồn ô nhiễm (nước thải và chất thải rắn), xâm nhập mặn còn thiếu và chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trên lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai. Quá trình thiết lập mạng lưới các trạm quan trắc trên địa bàn thành phố còn gặp trở ngại trong việc lựa chọn vị trí để bố trí các trạm quan trắc tự động liên tục hoạt động nhằm đảm bảo tính ổn định, lâu dài, phục vụ đánh giá diễn biến chất lượng môi trường trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, do quá trình quy hoạch đô thị chưa đề cập đến nội dung này. Còn với hoạt động cấp nước, lượng nước rò rỉ quá lớn, thiếu công nghệ xử lý thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Một vấn đề khác, đến nay còn thiếu sự tích hợp giữa các đề án, đồ án, quy hoạch ngành với quy hoạch xây dựng và quy hoạch sử dụng đất như quy hoạch phân khu, kế hoạch sử dụng đất... Quỹ đất cho công tác xây dựng, vận hành cơ sở hạ tầng bảo vệ môi trường chưa đáp ứng với nhu cầu. Chi phí xây dựng, hỗ trợ đầu tư, cơ chế khuyến khích xã hội hóa chưa đáp ứng với tình hình hiện nay; chưa tính toán, dự báo đầy đủ chi phí xây dựng, vận hành, tái đầu tư.
Cần tích hợp quy hoạch và xã hội hóa đầu tư
Trước thực tế trên, theo ông Nguyễn Toàn Thắng, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường TPHCM, đối với quy hoạch nhà máy xử lý nước thải tập trung, thành phố đã và đang tiếp tục kêu gọi, lựa chọn nhà đầu tư bằng nhiều hình thức khác nhau. Đồng thời, UBND TP chỉ đạo triển khai một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ thực hiện các dự án xử lý nước thải tập trung. Cụ thể, chỉ lựa chọn công nghệ xử lý nước thải đô thị đảm bảo hiện đại, hạn chế phát sinh mùi hôi tối đa, diện tích sử dụng đất và chi phí vận hành hợp lý. Áp dụng giải pháp xây dựng kín đối với các nhà máy xử lý nước thải tập trung, kết hợp rà soát lại quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn thành phố cũng như các khu đất đã được giải tỏa cho các dự án nhà máy tập trung để tận dụng tối ưu diện tích đất khi áp dụng công nghệ mới, đáp ứng các tiêu chí như đã nêu trên. Mặt khác, điều chỉnh quy hoạch tổng thể hệ thống thoát nước thành phố trên cơ sở kết hợp các lưu vực thoát nước, tận dụng tối đa những mặt bằng đã được giải tỏa và phù hợp với mục đích sử dụng đất để đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Hiện thành phố cũng đã chỉ đạo những đơn vị liên quan thực hiện thống kê lại tổng lượng nước thải đã được xử lý trên địa bàn để đánh giá tổng lượng nước thải đô thị được thu gom và xử lý, phục vụ cho mục tiêu 80% nước thải đô thị được thu gom xử lý trong chương trình “Giảm thiểu ô nhiễm môi trường giai đoạn 2016-2020”. Song song đó, chú trọng kêu gọi, tạo cơ chế khuyến khích, huy động nguồn xã hội hóa của các tổ chức tài chính, nhà đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng các nhà máy xử lý nước thải, hệ thống thu gom. Kêu gọi nguồn vốn ODA đầu tư, phát triển hệ thống thoát nước, thu gom nước thải. Phân vùng mạng lưới cấp nước và đấu thầu cải tạo theo hình thức phân chia lợi nhuận từ lợi ích giảm thất thoát trong việc cấp nước.
Với các dự án xử lý nước thải, ưu tiên kêu gọi đầu tư với hình thức xã hội hóa, đầu tư PPP hoặc tìm nguồn vốn đầu tư từ vốn vay nước ngoài, vốn ODA từ các chương trình biến đổi khí hậu. Điều chỉnh quy hoạch thoát nước cho toàn thành phố; xây dựng quỹ hỗ trợ và quy định khuyến khích sử dụng nước mưa để giảm ngập ở khu vực trung tâm thành phố. Ưu tiên các công trình công cộng, nhà hàng, khách sạn, cao ốc văn phòng… xây dựng kế hoạch tái sử dụng nước thải sau xử lý (tưới cây, phục vụ nông nghiệp 20.000 - 30.000ha trồng lúa hoặc rau củ quả…). Thực hiện kiểm tra, giám sát và có chế tài nghiêm khắc các trạm xử lý nước thải cục bộ.
Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi cho sở hoàn thành đề án và nâng cao năng lực quan trắc của thành phố giai đoạn 2016-2020, UBND TPHCM tiếp tục xem xét bố trí nguồn vốn tăng dần hàng năm nhằm phục vụ công tác duy trì, mở rộng, phủ kín mạng lưới quan trắc chất lượng môi trường; xét duyệt bổ sung dự án đầu tư 9 trạm quan trắc môi trường không khí tự động, liên tục. Đặc biệt, cần tích hợp giữa các đề án, đồ án, quy hoạch ngành liên quan đến bảo vệ môi trường với quy hoạch xây dựng và quy hoạch sử dụng đất (quy hoạch phân khu, kế hoạch sử dụng đất...), đảm bảo đáp ứng yêu cầu về vị trí, quy mô xây dựng các cơ sở hạ tầng bảo vệ môi trường (nhà máy xử lý, trạm trung chuyển, trạm quan trắc)…
Nhiều bất cập
Trao đổi về vấn đề này, nhiều chuyên gia môi trường đồng thuận khi cho rằng, điển hình nhất là hệ thống hạ tầng tiếp nhận và xử lý nước thải đô thị. Hiện tổng công suất xử lý nước thải đô thị của các nhà máy hiện hữu chỉ xử lý được 13% tổng lượng nước thải của thành phố. Khối lượng còn lại chưa qua xử lý nhưng đã thải bỏ ra môi trường chính là nguyên nhân khiến chất lượng nguồn nước kênh rạch thành phố bị ô nhiễm. Chưa hết, mạng lưới thoát nước cũng đang quá tải vì cường độ mưa tăng cao do hiện tượng biến đổi khí hậu.
Quản lý hệ thống thoát nước chưa đáp ứng theo quy hoạch nhưng đến nay vẫn chưa được xem xét giải quyết thỏa đáng; chưa có sự đánh giá đồng bộ và tổng hợp giữa các đơn vị liên quan trong quy hoạch các cơ sở hạ tầng về vị trí, quy mô, mạng lưới, tính tối ưu trong vận hành… Với những nhà máy xử lý nước thải hiện tại cũng chưa thực hiện được yêu cầu xã hội hóa công tác vận hành nên chi phí chưa được sử dụng hiệu quả.
Hệ thống quan trắc tự động giám sát chất lượng nguồn nước và các nguồn ô nhiễm (nước thải và chất thải rắn), xâm nhập mặn còn thiếu và chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trên lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai. Quá trình thiết lập mạng lưới các trạm quan trắc trên địa bàn thành phố còn gặp trở ngại trong việc lựa chọn vị trí để bố trí các trạm quan trắc tự động liên tục hoạt động nhằm đảm bảo tính ổn định, lâu dài, phục vụ đánh giá diễn biến chất lượng môi trường trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, do quá trình quy hoạch đô thị chưa đề cập đến nội dung này. Còn với hoạt động cấp nước, lượng nước rò rỉ quá lớn, thiếu công nghệ xử lý thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Một vấn đề khác, đến nay còn thiếu sự tích hợp giữa các đề án, đồ án, quy hoạch ngành với quy hoạch xây dựng và quy hoạch sử dụng đất như quy hoạch phân khu, kế hoạch sử dụng đất... Quỹ đất cho công tác xây dựng, vận hành cơ sở hạ tầng bảo vệ môi trường chưa đáp ứng với nhu cầu. Chi phí xây dựng, hỗ trợ đầu tư, cơ chế khuyến khích xã hội hóa chưa đáp ứng với tình hình hiện nay; chưa tính toán, dự báo đầy đủ chi phí xây dựng, vận hành, tái đầu tư.
Cần tích hợp quy hoạch và xã hội hóa đầu tư
Trước thực tế trên, theo ông Nguyễn Toàn Thắng, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường TPHCM, đối với quy hoạch nhà máy xử lý nước thải tập trung, thành phố đã và đang tiếp tục kêu gọi, lựa chọn nhà đầu tư bằng nhiều hình thức khác nhau. Đồng thời, UBND TP chỉ đạo triển khai một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ thực hiện các dự án xử lý nước thải tập trung. Cụ thể, chỉ lựa chọn công nghệ xử lý nước thải đô thị đảm bảo hiện đại, hạn chế phát sinh mùi hôi tối đa, diện tích sử dụng đất và chi phí vận hành hợp lý. Áp dụng giải pháp xây dựng kín đối với các nhà máy xử lý nước thải tập trung, kết hợp rà soát lại quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn thành phố cũng như các khu đất đã được giải tỏa cho các dự án nhà máy tập trung để tận dụng tối ưu diện tích đất khi áp dụng công nghệ mới, đáp ứng các tiêu chí như đã nêu trên. Mặt khác, điều chỉnh quy hoạch tổng thể hệ thống thoát nước thành phố trên cơ sở kết hợp các lưu vực thoát nước, tận dụng tối đa những mặt bằng đã được giải tỏa và phù hợp với mục đích sử dụng đất để đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Hiện thành phố cũng đã chỉ đạo những đơn vị liên quan thực hiện thống kê lại tổng lượng nước thải đã được xử lý trên địa bàn để đánh giá tổng lượng nước thải đô thị được thu gom và xử lý, phục vụ cho mục tiêu 80% nước thải đô thị được thu gom xử lý trong chương trình “Giảm thiểu ô nhiễm môi trường giai đoạn 2016-2020”. Song song đó, chú trọng kêu gọi, tạo cơ chế khuyến khích, huy động nguồn xã hội hóa của các tổ chức tài chính, nhà đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng các nhà máy xử lý nước thải, hệ thống thu gom. Kêu gọi nguồn vốn ODA đầu tư, phát triển hệ thống thoát nước, thu gom nước thải. Phân vùng mạng lưới cấp nước và đấu thầu cải tạo theo hình thức phân chia lợi nhuận từ lợi ích giảm thất thoát trong việc cấp nước.
Với các dự án xử lý nước thải, ưu tiên kêu gọi đầu tư với hình thức xã hội hóa, đầu tư PPP hoặc tìm nguồn vốn đầu tư từ vốn vay nước ngoài, vốn ODA từ các chương trình biến đổi khí hậu. Điều chỉnh quy hoạch thoát nước cho toàn thành phố; xây dựng quỹ hỗ trợ và quy định khuyến khích sử dụng nước mưa để giảm ngập ở khu vực trung tâm thành phố. Ưu tiên các công trình công cộng, nhà hàng, khách sạn, cao ốc văn phòng… xây dựng kế hoạch tái sử dụng nước thải sau xử lý (tưới cây, phục vụ nông nghiệp 20.000 - 30.000ha trồng lúa hoặc rau củ quả…). Thực hiện kiểm tra, giám sát và có chế tài nghiêm khắc các trạm xử lý nước thải cục bộ.
Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi cho sở hoàn thành đề án và nâng cao năng lực quan trắc của thành phố giai đoạn 2016-2020, UBND TPHCM tiếp tục xem xét bố trí nguồn vốn tăng dần hàng năm nhằm phục vụ công tác duy trì, mở rộng, phủ kín mạng lưới quan trắc chất lượng môi trường; xét duyệt bổ sung dự án đầu tư 9 trạm quan trắc môi trường không khí tự động, liên tục. Đặc biệt, cần tích hợp giữa các đề án, đồ án, quy hoạch ngành liên quan đến bảo vệ môi trường với quy hoạch xây dựng và quy hoạch sử dụng đất (quy hoạch phân khu, kế hoạch sử dụng đất...), đảm bảo đáp ứng yêu cầu về vị trí, quy mô xây dựng các cơ sở hạ tầng bảo vệ môi trường (nhà máy xử lý, trạm trung chuyển, trạm quan trắc)…