Sáng 18-5, tại hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW; trình bày chuyên đề “Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã khái quát lại sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) 40 năm qua, từ lúc đổi mới đến nay.

Đến nay, cả nước có gần 1 triệu doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong nền kinh tế. KTTN liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, là khu vực có đóng góp lớn nhất trong nền kinh tế, chiếm tỷ trọng khoảng 50% GDP. Từ năm 2016 đến nay, tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTN đạt khoảng 6-8%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Khu vực KTTN đóng góp rất quan trọng, tạo việc làm, thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt ở vùng nông thôn, địa bàn khó khăn. Giai đoạn năm 2017-2024, khu vực KTTN sử dụng bình quân hơn 43,5 triệu lao động, chiếm hơn 82% tổng số lao động có việc làm trong nền kinh tế. Tỷ trọng vốn đầu tư của KTTN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng nhanh, từ 44% năm 2010 lên 56% năm 2024; đóng góp hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước, khoảng 30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.

Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, KTTN là khu vực năng động trong đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm và dịch vụ. Các doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo tăng nhanh, từ 1.500 startup năm 2015 lên khoảng 4.000 startup vào năm 2024. Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn đang hình thành, phát triển, vươn tầm khu vực, quốc tế. Đội ngũ doanh nhân ngày càng phát triển lớn mạnh, tinh thần kinh doanh, tinh thần đổi mới và khát vọng vươn lên ngày càng mạnh mẽ. Đặc biệt, ngay cả trong những thời kỳ khó khăn, thiên tai, dịch bệnh, các doanh nghiệp, doanh nhân vẫn nỗ lực duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, thể hiện trách nhiệm xã hội với cộng đồng.

Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng nêu rõ những hạn chế, tồn tại trong phát triển KTTN thời gian qua; yêu cầu khách quan và chủ quan về việc phải có những chính sách đột phát trong phát triển KTTN trong thời kỳ mới của đất nước. Vì vậy, Nghị quyết 68/NQ-TW mới được ban hành 2 tuần, nhưng đã được cả hệ thống chính trị, toàn dân nhiệt liệt hưởng ứng, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, hộ kinh doanh hồ hởi đón nhận, xem đây là một bước tiến đột phá về tư duy phát triển, trở thành một “cuộc cách mạng về tư duy và thể chế” cho KTTN, tạo lập và củng cố niềm tin, thúc đẩy KTTN vươn lên, bứt phá, đóng góp cho đất nước.
Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ 5 quan điểm chỉ đạo mang tính đột phá của Nghị quyết 68-NQ/TW, gồm:
1. KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia;
2. Phát triển KTTN nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài;
3. Xóa bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về KTTN, coi doanh nhân là những chiến sĩ trên mặt trận kinh tế;
4. Tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, làm giàu hợp pháp, đóng góp cho đất nước;
5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước, lấy doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể; tôn vinh, cổ vũ, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh...

Mục tiêu đến năm 2030, KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị; có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; tốc độ tăng trưởng bình quân đạt khoảng 10-12%/năm; đóng góp khoảng 55-58% GDP; giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5-9,5%/năm; trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu châu Á.
Tầm nhìn đến năm 2045, KTTN Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045 có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp trên 60% GDP.

Thủ tướng Phạm Minh Chính trình bày 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp thể hiện tinh thần đổi mới, đột phá, cải cách mạnh mẽ, bảo đảm bám sát 3 đột phá chiến lược (về thể chế, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng) và trong tổng thể 4 nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị, gồm: Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp luật; Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển KTTN.

Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, Chính phủ đã ban hành kế hoạch hành động của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày (16-5-2025) của Chính phủ nhằm cụ thể hóa, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị. Phương châm đặt ra là phải tập trung thực hiện với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết định, xác định rõ trọng tâm, trọng điểm; phân công nhiệm vụ phải bảo đảm cụ thể, rõ ràng cho các bộ, ngành, địa phương thực hiện với tinh thần “6 rõ: rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ kết quả”.
Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu, trên cơ sở chương trình hành động của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch hành động, tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát, đánh giá thực hiện để thực hiện thành công Nghị quyết 68-NQ/TW, hiện thực hóa mục tiêu đưa KTTN trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Đồng thời, đề nghị cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân chung sức, đồng lòng, kề vai, sát cánh với các cấp, các ngành, các địa phương để sớm đưa Nghị quyết 68-NQ/TW vào thực tiễn cuộc sống, phát huy hiệu quả. Trong đó, chương trình hành động của Chính phủ đưa ra 8 nhóm nhiệm vụ với 117 nhiệm vụ cụ thể, giao cho từng bộ, ngành, các địa phương chủ trì hoặc phối hợp triển khai thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, với thời hạn, kết quả cụ thể.

Trong đó, Chính phủ giao các bộ, cơ quan theo chức năng, nhiệm vụ khẩn trương rà soát, trình cấp có thẩm quyền sửa đổi bổ sung 11 luật.
Các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh chuyển đổi số, cắt giảm tối đa thời gian, chi phí, điều kiện kinh doanh; quán triệt công chức, viên chức, người lao động đổi mới tư duy hành chính từ kiểm soát sang đồng hành, coi doanh nghiệp là đối tượng “phục vụ” thay vì đối tượng “quản lý”, đảm bảo nguyên tắc “nói đi đôi với làm”; nghiêm cấm lạm dụng cơ chế “xin - cho”, hành vi bảo hộ cục bộ, ngành, địa phương trong xây dựng và tổ chức thực thi chính sách, pháp luật.
>> Xem toàn văn Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị tại đây.
>> Xem toàn văn Nghị quyết số 138/NQ-CP của Chính phủ tại đây.