Trao đổi với phóng viên Báo SGGP, GS-TS Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo (Đại học Kinh tế Quốc dân), thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, nhấn mạnh: Việc triển khai hiệu quả nghị quyết này sẽ mở ra cơ hội lớn để khu vực kinh tế tư nhân phát triển bền vững, xứng đáng với vai trò động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.

* PHÓNG VIÊN: Nghị quyết số 68-NQ/TW xác định KTTN là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, đồng thời đặt mục tiêu phát triển khu vực KTTN trở thành lực lượng tiên phong trong phát triển KH-CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Theo ông, “động lực quan trọng nhất” ở đây được hiểu như thế nào và vai trò của khu vực KTTN đặt trong mối quan hệ với kinh tế nhà nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ra sao?
- GS-TS TRẦN THỌ ĐẠT: Việc Nghị quyết 68-NQ/TW nhấn mạnh KTTN là “động lực quan trọng nhất” vừa là sự ghi nhận đóng góp to lớn, vừa khẳng định tầm vóc chiến lược của khu vực này trong giai đoạn mới. Đây sẽ là một động lực mạnh mẽ nhất đưa nền kinh tế tiến nhanh, tiến vững chắc, đặc biệt trong kỷ nguyên KH-CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nếu trước đây, KTTN chỉ được coi là “một động lực quan trọng”, thì nay, với quy mô đóng góp ngày càng lớn vào GDP, việc làm và đổi mới sáng tạo, KTTN đã trở thành trọng tâm trong động lực tăng trưởng quốc gia.
Trong cấu trúc phát triển, kinh tế nhà nước, KTTN và khu vực FDI chính là 3 trụ cột vững chắc của nền kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tạo nền tảng ổn định vĩ mô, hạ tầng và thể chế. KTTN là mũi nhọn năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, khai phá thị trường và tạo giá trị gia tăng. Khu vực FDI mang đến vốn, công nghệ, phương thức quản trị tiên tiến và mạng lưới kết nối quốc tế. Ba trụ cột này bổ trợ lẫn nhau và để nền kinh tế bứt phá, cả ba đều phải đủ mạnh, có đủ sức mạnh riêng.
* Theo ông, đâu là những điểm nghẽn lớn kìm hãm quá trình phát triển của khu vực KTTN ở trong nước cũng như hội nhập quốc tế?
- Dù đã vươn lên mạnh mẽ, khu vực KTTN vẫn còn nhiều hạn chế nội tại kìm hãm sức bật. Cụ thể là hiệu quả kinh doanh, trình độ công nghệ, năng suất lao động và thu nhập của người lao động vẫn ở mức thấp nhất so với các khu vực kinh tế khác. Nhiều doanh nghiệp còn nhỏ, thiếu năng lực quản trị hiện đại, hạn chế về vốn và khả năng tiếp cận nguồn lực. Mô hình liên kết giữa doanh nghiệp tư nhân với nhau và với các khu vực khác chưa hiệu quả, dẫn đến sức cạnh tranh yếu ở cả thị trường nội địa lẫn quốc tế.
Bên cạnh đó, môi trường thể chế và chính sách vẫn còn rào cản, chưa thật sự công bằng, bao trùm và khuyến khích đổi mới; thủ tục hành chính, tiếp cận đất đai, tín dụng, KH-CN còn nhiều bất cập... Nếu những nút thắt này không được tháo gỡ bằng các giải pháp đột phá và đồng bộ, khu vực KTTN sẽ khó phát huy vai trò “động lực quan trọng nhất” như Nghị quyết 68-NQ/TW đã xác định.
* Vậy theo ông, đâu là những giải pháp đột phá cần tập trung trong thời gian tới?
- Để khu vực KTTN thực sự trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, cần tập trung đột phá vào 4 khâu then chốt.
Thứ nhất là đột phá về thể chế. Khung pháp lý phải bảo đảm công bằng, minh bạch, giảm tối đa rào cản hành chính và chi phí không chính thức, bảo vệ quyền tài sản và quyền kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân.
Thứ hai, cần có đột phá về nguồn lực, cải thiện khả năng tiếp cận vốn thông qua đa dạng hóa kênh huy động; ưu tiên phân bổ đất đai và hạ tầng cho các ngành, lĩnh vực có tiềm năng tạo giá trị gia tăng cao; thúc đẩy tiếp cận công nghệ và dữ liệu mở.
Thứ ba, đột phá về liên kết và thị trường; phát triển mạnh chuỗi cung ứng nội địa; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tham gia sâu vào mạng lưới sản xuất toàn cầu; nâng tầm thương hiệu và hệ thống phân phối quốc tế. Thứ tư là đột phá về nguồn nhân lực và văn hóa kinh doanh. Cần xây dựng đội ngũ doanh nhân có tầm nhìn chiến lược, năng lực quản trị hiện đại và đạo đức kinh doanh; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp sáng tạo; gắn phát triển kinh tế với trách nhiệm xã hội, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững.

* Ông kỳ vọng gì ở khu vực KTTN trong tiến trình phát triển của đất nước giai đoạn tới?
- Chúng ta đều kỳ vọng khu vực KTTN giai đoạn tới sẽ không chỉ lớn mạnh về quy mô mà còn trưởng thành về chất lượng, trở thành một lực lượng kinh tế - xã hội thực sự “nội sinh” và “dẫn dắt”. Đây sẽ là khu vực tiên phong trong đổi mới sáng tạo, làm chủ công nghệ mới, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn.
Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phải vươn lên từ “gia công” sang “sáng tạo giá trị”, từ “mua - bán” sang “xây dựng thương hiệu toàn cầu”, để mỗi sản phẩm, dịch vụ mang dấu ấn Việt Nam đều được thị trường quốc tế công nhận và tin dùng. Khu vực này cũng được kỳ vọng sẽ là “hạt nhân” lan tỏa tinh thần khởi nghiệp, thúc đẩy hình thành một hệ sinh thái doanh nghiệp năng động, không chỉ hưởng lợi từ tăng trưởng mà còn kiến tạo, đóng góp chủ động vào việc giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân... Nếu đạt được những điều đó, khu vực KTTN sẽ cùng với khu vực nhà nước và FDI tạo nên thế “kiềng 3 chân” vững chắc, đưa Việt Nam tiến nhanh và bền vững hơn trên con đường phát triển.
GS-TS NGUYỄN THÀNH HIẾU, Phó Giám đốc Đại học Kinh tế Quốc dân:
Khu vực KTTN có hiệu quả kinh doanh, trình độ KH-CN, năng suất lao động và thu nhập của người lao động còn thấp; có dấu hiệu “hụt hơi” trong quá trình phát triển… Nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ nhiều “nút thắt” như: nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của KTTN; thể chế, chính sách chưa thực sự công bằng và bao trùm… Nếu không tháo gỡ kịp thời, những nút thắt này sẽ cản trở mục tiêu đưa KTTN trở thành động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
PGS-TS LÊ XUÂN BÁ, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương:
Hiện nay, vẫn còn không ít người e ngại, lo lắng, thậm chí sợ KTTN lớn mạnh vì lo “chệch hướng”. Nếu phá bỏ được rào cản tư duy này trên thực tế thì mọi nguồn lực phát triển sẽ được khơi thông mạnh mẽ. Chúng ta đã nói rất nhiều về bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, nhưng hành động, việc làm thực tế chưa tương xứng. Đây cũng là lý do nhiều doanh nghiệp “không muốn lớn”.