Đến nay Việt Nam đã có trên 66.000 lao động sang làm việc theo chương trình thỏa thuận hợp tác với Hàn Quốc (Chương trình EPS), đem lại thu nhập bình quân khoảng 1.500 USD/người/tháng. Còn tại Đài Loan, đến nay đã có trên 250.000 lượt người sang làm việc, với thu nhập dao động từ 15 đến hơn 20 triệu đồng/người/tháng. Tuy nhiên, hiện Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) đang xem xét hạn chế việc tuyển dụng lao động Việt Nam và có khả năng đóng cửa có thời hạn hoặc tạm dừng thực hiện các ký kết thỏa thuận giữa hai bên do tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn ngày một tăng không phải bây giờ mới đặt ra.
Năm 2011, trước tình trạng lao động bỏ trốn tăng cao, Hàn Quốc phải ngưng kỳ kiểm tra tiếng Hàn và buộc Việt Nam phải có những động thái chấn chỉnh. Đến tháng 12-2011, sau khi có những giải pháp cam kết giảm dần tỷ lệ lao động bỏ trốn, thậm chí hàng loạt lao động ở địa phương bị cấm thì kỳ thi tiếng Hàn mới được tiếp tục trở lại.
Tuy nhiên, từ đó đến nay các giải pháp thực hiện theo cam kết với phía Hàn Quốc được Việt Nam triển khai không những không có hiệu quả mà tỷ lệ lao động bỏ trốn còn tăng, từ 48% lên 54% trong quý 1-2012. Chính vì vậy, Hàn Quốc đang áp dụng chính sách hạn chế số lượng hồ sơ tuyển dụng của lao động Việt Nam, đồng thời xem xét khả năng tạm dừng tiếp nhận lao động Việt Nam có thời hạn hoặc tạm dừng thực hiện chương trình EPS.
Nguyên nhân vì sao lao động Việt Nam bỏ trốn? Có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính có thể nói mức chi phí cho lao động làm việc ở Hàn Quốc đã bị các đơn vị môi giới đẩy lên quá cao. Một lao động Việt Nam đi Hàn Quốc làm việc, ngoài chi phí học tiếng Hàn chỉ đóng 630 USD nhưng thông qua phí môi giới cho các cò lao động gấp 5-10 lần phí quy định, có nơi người lao động phải đóng đến… 13.000 USD – một tài sản rất lớn đối với lao động nghèo.
Còn với thị trường Đài Loan, mức phí 4.500 USD/người lao động bị thu đến 6.500 USD, thậm chí 7.000 USD/người. Nguy cơ mất đi những thị trường xuất khẩu lao động cho thu nhập cao đang chực chờ, song các biện pháp chấn chỉnh xem ra mới chỉ dừng lại ở “biết rồi, khổ lắm...”.
Xuân Lâm