Tiếng trống hội làng

Tiếng trống hội làng

Tháng Giêng cũng là lúc người dân vùng đất ven sông Hồng nằm trong lòng di sản văn hóa xứ Đoài (thôn Cam Giá, xã An Tường, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) nô nức chuẩn bị cho hội làng. Hội năm nào cũng diễn ra với đầy đủ các nghi thức nhưng hội lớn, 5 năm mới mở một lần. 

Đình làng, theo các tài liệu ghi chép được xây dựng từ năm 1811 thờ Thần hoàng Cao Sơn Quý Minh (con rể Hùng Vương) và Cự Hải - những người có công lớn trong việc điều binh, khiển tướng, đánh thắng quân Thục, giữ nghiệp nhà Hùng. Đình còn lưu giữ nhiều mảng chạm khắc gỗ tinh xảo với kiến trúc cổ độc đáo được Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch xếp hạng Di tích văn hóa, lịch sử cấp quốc gia từ năm 1996.

Đoàn rước nước với hàng ngàn người dân tham dự.

Tiếng trống khai hội xuân bắt đầu diễn ra từ ngày 7 tháng Giêng với nghi thức tế cây bông cầu mong mưa thuận gió hòa, một năm đủ đầy, an vui cho người dân trong làng và những người con xa xứ làm ăn. Cây bông được làm từ thân tre, qua bàn tay của các cụ cao niên trong làng trở thành những chùm bông đẹp mắt, uốn cong, bung nở được gắn thêm những dải giấy màu xanh, đỏ đủ sắc. Hàng ngàn bông nhỏ tựa như từng bông lúa, được gắn thành cây bông lớn dựng giữa sân đình tề chỉnh cho lễ Tế kéo dài suốt gần 2 giờ. Những bông đó sẽ là phần lộc phát cho từng hộ gia đình trong làng, con dân đi làm ăn xa hay khách thập phương về dự với hội. Nghi thức rước và tế cây bông trở thành nét văn hóa đặc sắc của đình làng Cam Giá và được duy trì từ vài chục năm trở lại đây.

Hội xuân có lẽ rộn ràng và vui nhất với lễ rước nước (ngày 9 tháng Giêng) - nghi thức đặc trưng và phổ biến của các cư dân, xóm làng canh tác nông nghiệp vùng châu thổ sông Hồng. Lễ rước nước nghĩa là lấy dòng nước sạch, tinh khiết ở giữa sông Hồng (hay còn gọi là dòng nước hai) về để tắm thánh. Đó là nghi thức thể hiện sự thành kính, biết ơn với các vị thần được thờ ở đình và cầu mong một năm mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa. Lễ rước thường được chuẩn bị và luyện tập rất kỹ hàng tháng trước hội gồm nhiều bộ phận. Đó là hai ban tế nam, nữ gồm các cụ ông, cụ bà được người dân tín nhiệm cử ra. Đội múa sinh tiền gồm 8 cụ bà trang phục tề chỉnh, trên tay cầm những sinh tiền - một nhạc cụ tổng hợp mà khi đánh phát ra những thanh âm rộn ràng. Đó còn là đội chấp kích có nhiệm vụ rước các binh khí của nhà thánh... Nhưng trong lễ rước, không thể thiếu kiệu rước gồm: kiệu hoa và kiệu rước ché - tựa như lọ lục bình lớn dùng để đựng nước về tắm thánh. Lễ rước đi bộ gần 2km từ đình làng băng qua cánh đồng đến khu vực bờ sông trước khi lên thuyền rồng, chạy nhiều vòng trên sông để chọn dòng nước sạch nhất. Đi theo lễ rước, hai đoàn múa rồng cùng nhau uốn lượn trong tiếng cổ vũ, hò reo của hàng nghìn người dân trong làng.

Chính hội là ngày 10 tháng Giêng hàng năm thu hút hàng ngàn người tham dự. Người dân trong làng, ngoài xã, khách thập phương cùng dâng lễ, dâng hương kính thánh; tham dự nghi thức Tế lễ trước khi nhập hội với các trò chơi dân gian: nhảy dây, bịt mắt bắt vịt, chọi gà... Đình làng ngày thường yên ả là thế nhưng nay náo nhiệt, đông vui, dư âm còn kéo dài trong những câu chuyện kể khi làm đồng của các bà, các cô nhiều ngày về sau. Với những người con xa xứ, những ký ức và không khí của hội xuân còn theo chân họ đến mọi miền Tổ quốc. Tiếng trống hội, ngày tế cây bông, lễ rước nước trở thành những nét văn hóa vừa bình dị, gắn liền với cuộc sống lao động hàng ngày, vừa mang ý nghĩa tâm linh tích cực. Trong tiềm thức của mỗi người dân quê, hội không chỉ là ngày gặp gỡ, ngày vui mà còn để tất cả cùng chung mong ước cho làng mỗi ngày một thịnh vượng, hội làng mỗi năm thêm rộn ràng.

VĂN TUẤN

Tin cùng chuyên mục