TPHCM lắng nghe, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp

Ngày 17-2, UBND TPHCM tổ chức hội nghị gặp gỡ, lắng nghe các đề xuất của doanh nghiệp trên địa bàn TPHCM. Hội nghị có sự tham dự của Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Văn Nên, Phó chủ tịch UBND TPHCM Võ Văn Hoan và hơn 100 đại biểu là đại diện các hiệp hội, doanh nghiệp, cùng sở ban ngành.
Lãnh đạo TPHCM lắng nghe để tháo gỡ khó khăn cho DN TPHCM. Ảnh: HOÀNG HÙNG
Lãnh đạo TPHCM lắng nghe để tháo gỡ khó khăn cho DN TPHCM. Ảnh: HOÀNG HÙNG

Tại hội nghị, Phó chủ tịch UBND TP Võ Văn Hoan đã chia sẻ, năm 2022, GRDP đã đạt 9,03% cao hơn chỉ tiêu TP đặt ra là 6-6,5% và cao hơn GRDP trung bình cả nước là 6%. Cùng với đó những chỉ tiêu về thu ngân sách, giải quyết việc làm an sinh xã hội đều đạt hiệu quả cao. Để có thể đạt được hiệu quả này, thành phố ghi nhận sự tham gia đồng bộ, nhịp nhàng có trách nhiệm của các sở ngành, địa phương, doanh nghiệp, người dân.

Thế nhưng từ cuối năm 2022 tình hình diễn biến phức tạp, ảnh hưởng khá toàn diện lên hoạt động của doanh nghiệp trên nhiều lĩnh vực. Nhiều thông tin không khả quan đã được gửi đến chính quyền thành phố, đòi hỏi thành phố phải có giải pháp tháo gỡ, tạo đà thúc đẩy tăng trưởng của TPHCM.

Phó chủ tịch UBND TP Võ Văn Hoan phát biểu. Ảnh: HOÀNG HÙNG
Phó chủ tịch UBND TP Võ Văn Hoan phát biểu. Ảnh: HOÀNG HÙNG

Liên quan đến vấn đề này, ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội DN TPHCM cho biết, từ quý 4/2022, hoạt động sản xuất kinh doanh có phần chậm lại, số lượng doanh nghiệp có doanh thu tăng chỉ còn chiếm 22%, so với tỷ lệ 26% của quý trước đó.

Về lực lượng lao động, một số doanh nghiệp đang cho người lao động làm việc thay phiên hoặc nghỉ tết dài ngày. Điều này xảy ra là bất thường so với các năm trước, với lý do không có đơn hàng dự trữ.

Bên cạnh đó, khảo sát của hiệp hội cũng chỉ ra rằng, số doanh nghiệp có mức lương bình quân trên 10 triệu đồng/tháng giảm từ 80% của quý 2/2022 xuống còn 65% của quý này. Đây là tín hiệu báo động của thị trường lao động đối diện nhiều khó khăn sắp tới.

Trong lĩnh vực xuất khẩu, do lạm phát tăng cao, đặc biệt tại các thị trường xuất khẩu chính của dệt may như Mỹ, EU lên tới 6-7% nên lượng tiêu thụ giảm rõ rệt, (châu Âu đã giảm tới 60%, Mỹ giảm 30-40%), tồn kho tăng lên chiếm 20-25% dẫn đến quý 4/2022 và quý I/2023 khách hàng hạn chế hoặc không đặt đơn hàng mới. Cụ thể, đơn hàng cho tháng 11, 12 thiếu khoảng 35-50% năng lực hoặc có đơn hàng nhưng cạnh tranh gay gắt về giá, nhiều khách hàng đưa ra mức giá chỉ bằng 50% so với mức bình thường, thậm chí có khách hàng đưa ra chỉ bằng 40%. Hệ quả là, nhiều doanh nghiệp đã phải cắt giảm lao động, giảm quy mô sản xuất từ cuối năm 2022.

Ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM chia sẻ khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải. Ảnh: HOÀNG HÙNG

Ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM chia sẻ khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải. Ảnh: HOÀNG HÙNG

Cũng theo ông Hòa, hiện có một số ngành đang gặp khó khăn nghiêm trọng. Trước hết là ngành mỹ nghệ chế biến gỗ, đơn hàng sụt giảm nghiêm trọng, hoạt động cầm chừng, nhất là các doanh nghiệp nội địa (gỗ dăm và viên nén tăng nhưng chủ yếu do doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp FDI). Thực tế ghi nhận cho thấy, chỉ có 10% doanh nghiệp còn 50% đơn hàng, có 50% doanh nghiệp còn 30-40% đơn hàng, các doanh nghiệp còn lại là không có đơn hàng. Do đó, hàng tồn kho tăng cao, thiếu dòng tiền.

Riêng trong lĩnh vực bất động sản, hiện rất khó khăn và có xu hướng đi vào suy thoái. Minh chứng rõ nhất là thị trường đang thu hẹp quy mô kinh doanh, dừng đầu tư, ngưng thi công các dự án mới, thị trường gần như đóng băng và có khả năng kéo dài. Điều đáng nói là sự ngưng trệ của thị trường bất động sản đã kéo theo sự ảnh hưởng đến nhiều ngành liên quan. Đơn cử, ngành vật liệu xây dựng đang ghi nhận sụt giảm nghiêm trọng cả trên thị trường trong và ngoài nước. Cụ thể, hiện giá thép giảm 60% do lượng cung quá lớn trong khi nhu cầu giảm, sản lượng xuất khẩu thép giảm 69,3%; nhà máy xi măng ế ẩm, xuất khẩu giảm 55%, thị trường trong nước cũng sụt giảm do đầu tư công và dự án bất động sản đóng băng, doanh nghiệp nợ lẫn nhau. Người lao động bị sa thải, ảnh hưởng nghiêm trọng đời sống an sinh xã hội.

Mặt khác, do biến động trái phiếu và việc kiểm soát tín dụng chặt chẽ cho thấy nền kinh tế thiếu tính thanh khoản; nhà đầu tư có dấu hiệu bị suy giảm niềm tin vào một số ngân hàng nên khả năng huy động vốn sụt giảm. Chính sách điều hành và kiểm soát rủi ro tín dụng của Ngân hàng Nhà nước mang tính giật cục. Chính sách hỗ trợ lãi vay 2% ít khả thi, khó thực hiện, vì một số doanh nghiệp lo ngại về thủ tục giấy tờ và thanh kiểm tra.

Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Văn Nên trao đổi với đại diện các hiệp hội, doanh nghiệp. Ảnh: HOÀNG HÙNG

Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Văn Nên trao đổi với đại diện các hiệp hội, doanh nghiệp. Ảnh: HOÀNG HÙNG

Trên cơ sở thực tế khó khăn trên, ông Nguyễn Ngọc Hòa đã thay mặt các doanh nghiệp thành phố đã gửi đến thành phố nhiều kiến nghị cần thực hiện để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Theo đó, về chính sách của nhà nước, cần hỗ trợ vốn, tín dụng. Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước có biện pháp hạ lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại, khống chế tỷ lệ “biên độ lãi ròng” (NIM) ở mức 3% cũng là giải pháp cần thiết để các ngân hàng thương mại chia sẻ khó khăn với nền kinh tế hiện nay nhằm hạ lãi suất cho vay. Ngoài ra, nhà nước cần tiếp tục thực hiện chính sách gia hạn nợ vay 1 năm 2023 đối với các khoản vay trung và dài hạn.

Với thị trường trái phiếu và tài chính, kiến nghị Chính phủ có chính sách cho doanh nghiệp phát hành gia hạn, mua lại hay tất toán các khoản nợ với trái chủ. Theo đó các trái phiếu của tài sản đảm bảo và có kỳ hạn 1 năm trở xuống được gia hạn 12 tháng, trái phiếu có kỳ hạn 3 năm trở lên được gia hạn 18 tháng. Do niềm tin của các trái chủ bị lung lay nên kiến nghị nhà nước cần ban hành chính sách trên giúp ổn định thị trường tài chính.

Cùng với đó, về chính sách hỗ trợ về thuế, thời gian qua, Chính phủ đã thực hiện miễn giảm và gia hạn nộp thuế đối với thuế GTGT, thuế TNDN và tiền thuê đất. Tuy nhiên, chưa thực hiện ưu đãi thuế TNCN đối với người làm công ăn lương, là những cá nhân và gia đình ảnh hưởng rất nhiều bởi dịch bệnh Covid-19 vừa qua... Vì vậy, việc miễn giảm thuế TNCN trong năm 2023 là cần thiết.

Đồng thời, để giải quyết tình hình hết sức khó khăn của doanh nghiệp hiện nay, nhà nước nên tiếp tục áp dụng thuế suất thuế GTGT 8% cho tất cả các ngành kinh tế, thời hạn áp dụng tới hết năm 2023. Các loại thuế khác (thuế thu nhập doanh nghiệp tiền thuê đất, thuế tiêu thụ đặc biệt…) cũng cần được xem xét miễn, giảm để chia sẻ khó khăn doanh nghiệp và khuyến khích phát triển kinh tế trong thị trường cạnh tranh quốc tế khó khăn hiện nay. Chính phủ cần thực hiện luật thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu sửa đổi một cách triệt để. Không để tình trạng nhập nguyên thiết bị máy móc thì thuế nhập khẩu 0%-10% hoặc miễn thuế, trong khi chế tạo máy trong nước phải nhập khẩu nguyên vật liệu, linh kiện phụ tùng thì có thuế nhập khẩu lên đến 15% như hiện nay. Ngoài ra, nhà nước cần chỉ đạo quyết liệt việc giải quyết hoàn thuế đúng thời hạn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp phát triển.

Ở góc độ thành phố, nhiều ý kiến doanh nghiệp đề nghị thành phố cần đơn giản hóa thủ tục hành chính để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Trong đó tập trung giảm bớt các công đoạn thẩm định hồ sơ; thực hiện thiết chế pháp lý để giảm khoản chi phí không chính thức. Cần xem xét mở rộng ngành nghề, nâng số vốn cho vay từ Chương trình kích cầu đầu tư để chương trình có hiệu quả lan tỏa và doanh nghiệp được tiếp cận với nguồn vốn thuận lợi hơn.

Cùng với đó, thành phố cần tập trung giải quyết hồ sơ tồn đọng về cấp chủ quyền đất đai, nhà xưởng (thuê hoặc mua), hoàn công để doanh nghiệp, người dân có chủ quyền đất thế chấp vay ngân hàng đưa vào sản xuất kinh doanh. TP xem xét việc cấp phép xây dựng phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; chấn chỉnh tình hình kiểm tra xây dựng, kiểm tra doanh nghiệp còn nhiều tiêu cực hiện nay. Đồng thời xem xét lại chính sách cho thuê đất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được thế chấp giá trị đất thuê và tài sản trên đất thuê để vay ngân hàng, từ đó khuyến khích doanh nghiệp ở lại thành phố thay cho xu hướng chuyển dịch về các tỉnh lân cận (Long An, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh…) như hiện nay.

* Ông Đỗ Phước Tống, Chủ tịch Hội Cơ khí Điện TPHCM:

Doanh nghiệp ngành cơ khí có quy mô nhỏ và rất nhỏ nên vốn mỏng, nội lực hạn chế. Trên thực tế, TP đã ban hành chính sách hỗ trợ lãi suất vay cho ngành nhưng việc tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất thấp còn rất hạn chế. Thậm chí có nhiều doanh nghiệp dù đã được thành phố duyệt cho vay vốn kích cầu nhưng thời gian giải ngân chậm nên cũng gặp khó. Thậm chí, có lãnh đạo doanh nghiệp phải bán nhà để giải quyết vốn vay với ngân hàng hoặc bán doanh nghiệp cho doanh nghiệp FDI để “an toàn”.

Không dừng lại đó, quy định về xuất xứ hàng hoá khi tham gia đấu thầu, nhất là đấu thầu công đang là rào cản lớn cho doanh nghiệp. Hiện theo tiêu chuẩn thầu phổ biến là sản phẩm tham gia đấu thầu phải đạt tiêu chuẩn G7. Thế nhưng sản phẩm Việt Nam thì không thể nào có được tiêu chuẩn này. Do vậy, để có thể "hợp thức hóa" tiêu chuẩn này, doanh nghiệp trong nước đã phải tạm xuất qua một nước lân cận, "lấy" xuất xứ G7 và quay trở lại trong nước để tham gia hoàn thiện hồ sơ đấu thầu. Tình trạng này kéo dài trong nhiều năm đã triệt tiêu sự phát triển của doanh nghiệp. Và những khó khăn trên cần sớm tháo gỡ.

* Bà Lý Kim Chi, Chủ tịch Hội Lương thực Thực phẩm TPHCM:

Hiện lãi suất vay vốn doanh nghiệp phải trả trên 10%. Đây là vấn đề mà các doanh nghiệp lo lắng nhất. Bởi nếu tính chung lãi suất vay trên 10%, cộng với giá điện nước, nguyên liệu đang tăng khiến tỷ suất lợi nhuận doanh nghiệp cực thấp, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng đuối sức. Chưa dừng lại đó, hiện đang có tình trạng doanh nghiệp vừa và lớn đã có thương hiệu, có nguy cơ bị thâu tóm bởi các quỹ đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài. Do vậy, cần chính sách hỗ trợ toàn diện về lãi suất, chính sách vốn, đầu tư, vùng nguyên vật liệu... để doanh nghiệp gia tăng nội lực sản xuất.

* Bà Đặng Minh Phương, Chủ tịch Hiệp hội Logistics TPHCM:

Logictics là ngành lợi nhuận thấp nhất nhưng vốn đầu tư và chi phí vận hành rất cao. Trên thực tế, hạ tầng giao thông thành phố chưa tăng kịp theo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế gây ùn tắc giao thông, nhất xung quanh khu vực cảng, làm phát sinh chi phí vận hành lớn cho ngành. Đơn cử tại cảng Cát Lái quy hoạch tiếp nhận 3 triệu tiêu nhưng thực tế tiếp nhận là 5 triệu tiêu, và trong xu hướng gần là lên đến 8 triệu tiêu. Do vậy mà tình trạng giao thông quanh khu vực cảng luôn trong tình trạng ùn tắc giao thông nghiêm trọng, làm tăng chi phí hoạt động của doanh nghiệp logictics, giảm năng lực cạnh tranh của ngành.

Theo bà Phương, để hỗ trợ doanh nghiệp ngành logictics phát triển, đề xuất thành phố cần có chính sách giảm thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm 50% phí hạ tầng đường bộ, phí cảng biển. Về quy định PCCC, cần xem xét lại tiêu chí vì tiêu chí này đang cao hơn Mỹ. Với tiêu chí này buộc doanh nghiệp phải tăng thêm 30%/tổng chí phí xây dựng, gây ảnh hưởng rất lớn cho nội lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Ngoài ra, thành phố sớm đưa vào vận hành hệ thống đường cao tốc, đường trên cao, kết hợp xây dựng đường thủy nội địa kết hợp xây dựng bến bãi, cụm cảng nhằm giảm ùn tắc giao thông, giảm chi phí vận hành cho ngành.

* Ông Hứa Phú Doãn, Phó Chủ tịch Hội Thiết bị Y tế TPHCM:

Hiện khó khăn rất lớn trong kinh doanh thiết bị y tế là hồ sơ xin giấy phép lưu hành sản phẩm (loại C, D), tốc độ giải quyết hồ sơ rất chậm. Trong 5.000 hồ sơ được nộp tại vụ trang thiết bị chỉ giải quyết khoảng từ 300 - 400 hồ sơ, trung bình muốn xin giấy phép lưu hành sản phẩm loại C, loại D là phải mất từ 1 năm đến 2 năm làm cho tính mới không còn nữa.

Về vấn đề sản xuất và kinh doanh trang thiết bị y tế, ngành sản xuất trang thiết bị y tế trong nước gần như dậm chân tại chỗ không phát triển được. Do các lí do sau: Do cơ chế các thủ tục xin cấp phép sản xuất trang thiết bị y tế sản xuất trong nước còn rất khó khăn, phức tạp khiến cho các doanh nghiệp rất ngại đầu tư trong vấn đề sản xuất trang thiết bị y tế. Chuỗi cung ứng cho công nghệ phụ trợ trong ngành trang thiết bị y tế rất hiếm, hầu như là không có, không đáp ứng cho sản xuất trang thiết bị y tế. Thành phố chưa có chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp trang thiết bị y tế trong nước có điều kiện để tham gia các hội trợ triển lãm trong nước cũng như nước ngoài. Bên cạnh đó, thành phố chưa có khu công nghiệp chuyên về sản xuất trang thiết bị y tế để từ đó kích thích ngành công nghệ phụ trợ cho thiết bị y tế như điện tử, cơ khí, phần mềm trí tuệ nhân tạo

Trên cơ sở đó, hiệp kiến nghị thành phố có chính sách hỗ trợ, đầu tư xây dựng chuỗi cung ứng cho công nghệ phụ trợ của ngành trang thiết bị y tế. Thành phố cần định hướng xây dựng một khu công nghiệp trang thiết bị y tế trong các khu công nghiệp đã có sẵn. Ở góc độ khác, cần kiến nghị với trung ương cải tiến các thủ tục hành chính trong việc cấp phép lưu hành sản phẩm, trang thiết bị y tế; tổ chức và quản lý việc đấu thầu mua sắm trang thiết bị y tế một cách khoa học và hợp lý, tránh hiện tượng tiêu cực lợi ích nhóm trong việc đấu thầu trang thiết bị y tế. Đặc biệt, có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất trang thiết bị y tế tham gia các hội chợ và các chương trình xúc tiến thương mại trong nước cũng như quốc tế. Triển khai việc thành lập các viện, trung tâm kiểm định trang thiết bị y tế theo nhiều hình thức khác nhau.

Tin cùng chuyên mục