Sự kiện có sự tham gia của đại diện các cơ quan quản lý, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà làm phim với nhiều tham luận, trao đổi, thảo luận sôi nổi.
Hoàn thiện khung pháp lý rõ ràng
Phát biểu khai mạc hội thảo, bà Lê Thị Hà - Viện trưởng Viện phim Việt Nam, chia sẻ, theo Luật Điện ảnh, tất cả phim Việt Nam sau khi được cấp phép phân loại đều phải nộp lưu chiểu.
Hiện nay, có 2 nhóm chính, gồm phim nhà nước đặt hàng khi nộp lưu chiểu sẽ ở trạng thái mở khóa, thuận lợi cho việc kiểm tra chất lượng, tra cứu, nghiên cứu.
Tuy nhiên, nhóm phim do các đơn vị tư nhân sản xuất vẫn được tiếp nhận lưu trữ nhưng ở dạng mã khóa, nên Viện không thể mở để thẩm định, nghiên cứu hay khai thác phục vụ học thuật nếu không có sự cho phép từ chủ sở hữu bản quyền.
Theo bà Hà, vấn đề bản quyền trở thành điểm mấu chốt trong công tác lưu trữ và phát huy giá trị tư liệu lưu trữ điện ảnh. Để khai thác, phổ biến các phim này một cách hiệu quả, cần phải khung pháp lý rõ ràng liên quan đến quyền sử dụng, thu - chi tiền bản quyền và cơ chế quản lý nguồn thu (nếu có).
Liên quan đến câu chuyện bản quyền, bà Nguyễn Thị Ngọc Hà - Phó trưởng phòng hợp tác quốc tế về Quyền tác giả và Quyền liên quan (Cục Bản quyền tác giả, Bộ VH-TT-DL) đối với tác phẩm điện ảnh việc phân định cho nhóm chủ thể nào những quyền lợi gì, quyền ở mức độ nào, hay việc “định đoạt” đối với tác phẩm tập thể này được thực hiện như thế nào là những nội dung mà pháp luật quốc gia phải giải quyết khi quy định chi tiết về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh.
Việc khai thác các tác phẩm điện ảnh thuộc sở hữu nhà nước thời gian qua cũng xuất hiện những ý kiến pháp lý, về thẩm quyền cho phép khai thác các loại hình tác phẩm này, đặc biệt là việc đưa lên khai thác thương mại trên môi trường số.
Còn theo Luật sư Lê Quang Vinh, công ty Bross & Partner, khi các phim Việt, đặc biệt các phim kinh điển được phổ biến tại Mỹ, các hoạt động khai thác như dịch, phóng tác, remake hay phân phối lại đều tiềm ẩn những vấn đề pháp lý phức tạp về quyền tác giả, đòi hỏi sự rõ ràng trong hợp đồng với các đối tác.
Để hiện thực hóa tiềm năng của di sản phim đồ sộ này, luật sư Lê Quang Vinh đề xuất cần hoàn thiện khung pháp lý về sở hữu trí tuệ, đặc biệt là việc xác định và quản lý quyền sở hữu trí tuệ đối với các tác phẩm thuộc sở hữu nhà nước một cách minh bạch, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Cần có cơ chế ủy quyền rõ ràng cho Viện phim để chủ động đàm phán, cấp phép.
"Tái sinh" cho di sản phim đồ sộ
Khái quát về công tác khai thác, phát huy giá trị tư liệu hình ảnh động lưu trữ hiện nay, TS Ngô Đặng Trà My chia sẻ, hiện Viện Phim Việt Nam đang lưu giữ và bảo quản hàng vạn mét phim tư liệu, tài liệu quý hiếm của điện ảnh Việt Nam; bộ sưu tập gần 20.000 tên phim, với khoảng hơn 80.000 cuốn phim 35mm, 16mm, hàng chục ngàn băng video các loại.
Đặc biệt, nổi bật trong đó là khối lượng lớn tác phẩm điện ảnh cách mạng Việt Nam kinh điển như: Chung một dòng sông, Con chim vành khuyên, Vợ chồng A Phủ, Chị Tư Hậu, Đường về quê mẹ, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Cánh đồng hoang, Mẹ vắng nhà, Bao giờ cho đến tháng Mười.
Ngoài ra, kho lưu trữ các tài liệu kèm theo phim của Viện phim Việt Nam cũng đang lưu giữ 1.500 hồ sơ phim truyện Việt Nam, 2.030 hồ sơ phim tài liệu, 615 hồ sơ phim hoạt hình, hàng trăm hồ sơ về các nhà hoạt động điện ảnh, các vấn đề chung của điện ảnh…
Về hoạt động khai thác phổ biến nguồn tư liệu quý này, Viện phim Việt Nam đã nỗ lực khai thác với tần suất cao, đa dạng, phục vụ đông đảo công chúng khắp mọi miền đất nước thông qua nhiều hình thức tổ chức phong phú: chiếu phim, thực hiện các tuần phim, đợt phim Việt Nam theo chủ đề, tổ chức các chương trình chuyên đề, gặp gỡ, giao lưu khán giả, giới thiệu tác giả, tác phẩm điện ảnh cách mạng Việt Nam kinh điển...
Ngoài ra, các hoạt động giới thiệu đến khán giả ở nước ngoài những tác phẩm điện ảnh Việt Nam lưu trữ, đặc biệt là phim về đề tài lịch sử, chiến tranh cách mạng cũng được tổ chức thường xuyên.
TS Ngô Phương Lan - Chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến phát triển điện ảnh Việt Nam coi những di sản điện ảnh giống như "đất vàng", "đất kim cương". Vấn đề đặt ra là phát huy những giá trị đó như thế nào, có thể tái sinh nó được không.
Bà Lan cũng nêu lên thực trạng, một thời gian dài khan hiếm về kinh phí khiến điện ảnh Việt đã bỏ lỡ nhiều cơ hội khiến di sản điện ảnh không đi đến tận cùng.
Hiến kế cho công tác lưu trữ, phổ biến phim hiện nay theo bà Lan cần có định hướng bảo tồn và số hóa; đầu tư phục dựng phim kinh điển bằng công nghệ 4K, AI; tái sinh di sản bằng ngôn ngữ điện ảnh hiện đại; phát triển mô hình kinh doanh dựa trên di sản; đào tạo nhân lực gắn với di sản...
TS Nguyễn Thế Hùng - Nguyên Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ (Bộ VH-TT-DL) đặt ra vấn đề dù khai thác hay chưa khai thác được thì vẫn hãy dồn công sức để bảo quản, gìn giữ không để hình ảnh nào, thước phim nào bị hủy hoại, mất mát.
TS Hà Thanh Vân cũng đề xuất 4 nhóm giải pháp giải pháp trọng tâm: hoàn thiện cơ chế quản lý và hành lang pháp lý cho “di sản hình ảnh động”; đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ mới (AI, VR/AR, blockchain) trong phục chế, lưu trữ và phổ biến; xây dựng chiến lược truyền thông - giáo dục - sáng tạo, đưa di sản điện ảnh vào đời sống đương đại; phát triển mô hình hợp tác công - tư, gắn bảo tồn di sản với công nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo.