Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, ngày càng nhiều quan điểm đồng thuận về mô hình định lượng 5 nguồn lực: tài chính, xã hội, sản phẩm, con người và tài nguyên.
Phát triển bền vững để tiến tới một xã hội phồn vinh thì phải quản trị định lượng, huy động, sử dụng hiệu quả và hơn hết phải làm gia tăng tất cả 5 nguồn lực cơ bản bằng nhiều giải pháp.

Thứ nhất là quản trị kinh tế bền vững. Quản trị hiệu quả các nguồn lực là phải xây dựng và triển khai quy hoạch tốt để nâng cao 5 nguồn lực nói trên, thay vì làm xuống cấp chúng. Đây cũng nên là những nội dung cốt lõi trong kế hoạch, chiến lược, tầm nhìn quy hoạch tổng thể quốc gia của Chính phủ, từ Trung ương tới địa phương và kể cả cộng đồng doanh nghiệp.
Qua đó, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội một cách nhất quán và chủ động tránh các hiện tượng tiêu cực như lãng phí, tham nhũng…, đặc biệt là phải đạt được hiệu quả quy mô kinh tế (Economies of scale).
Thứ hai là chủ động phát huy nguồn lực. Trong mô hình 5 nguồn lực thì chỉ có 2 nguồn lực con người và xã hội có đặc tính chủ động thúc đẩy tất cả nguồn lực phát triển và đổi mới kinh tế - xã hội.
Quản trị tốt hai nguồn lực này chính là sự khác biệt lớn nhất quyết định một quốc gia phát triển hay đang phát triển. Trong đó, nguồn vốn con người được xem là tài sản quan trọng nhất của bất kỳ quốc gia nào.
Về nguồn lực con người, cần chú trọng phát triển kinh tế tư nhân và lực lượng doanh nhân trong việc triển khai thực hiện thành công Nghị quyết số 68-NQ/ TW ngày 4-5-2025 của Bộ Chính trị nhằm hoàn thiện kinh tế thị trường, giải phóng bản năng khát khao vươn lên mạnh mẽ vô hạn của con người.
Bên cạnh đó cần xây dựng và đào tạo đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hóa kinh doanh trung thực, liêm chính, trách nhiệm xã hội, gắn với bản sắc dân tộc, tiếp cận tinh hoa văn hóa kinh doanh thế giới, mang trong mình khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, hùng cường, thịnh vượng.
Ở Việt Nam, bài học về nguồn lực xã hội lớn nhất trong công cuộc đổi mới lần thứ nhất là đổi mới thể chế từ cơ chế bình quân sang bình đẳng đã đưa nền nông nghiệp nước ta từ khủng khoảng thiếu sang dư thừa và xuất khẩu hàng đầu về nông sản. Đây cũng là khởi đầu của công cuộc chuyển mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường.
Chính vì vậy, phải đẩy mạnh công cuộc đổi mới xây dựng và thi hành pháp luật theo tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới tinh giản, sắp xếp lại thể chế và bộ máy chính quyền từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố đảm bảo tính hiệu quả của các nguồn lực xã hội.
Thứ ba là tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Việc nâng cấp, mở cửa và làm sâu sắc quan hệ quốc tế thông qua các thể chế kinh tế song phương với các đối tác chiến lược toàn diện không chỉ là điều kiện để mở rộng thị trường mà còn là nền tảng để Việt Nam chuyển sang giai đoạn hội nhập chất lượng cao, củng cố vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Đây là “đòn bẩy kép” - vừa phát triển đột phá kinh tế, đa dạng hóa rủi ro, vừa định vị Việt Nam là đối tác tin cậy, hấp dẫn và có trách nhiệm trong cộng đồng kinh tế quốc tế nhằm hướng tới triển khai mạnh mẽ Nghị quyết 59-NQ/ TW ngày 24-1-2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”.
Thứ tư là đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ. Trong thời đại ngày nay, quản trị kinh tế đất nước phải đạt được 2 mục tiêu chủ yếu là tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sống người dân, thông qua quản trị tốt các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội.
Cuộc cách mạng 4.0 và 5.0, với cốt lõi là cạnh tranh công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) dựa trên các tiêu chuẩn, quy trình sản xuất với chuỗi cung ứng sản phẩm hiệu quả, nhằm tạo ra nguồn lực sản phẩm công nghệ cao (bao gồm cả sản phẩm lưỡng dụng phục vụ cho cả 2 mục đích kinh tế và an ninh quốc phòng).
Khoa học và công nghệ ngày nay đang thực sự là cơ hội cho việc tăng nhanh năng suất và chất lượng sống của toàn dân, do đó cần xây dựng, phát triển một xã hội với môi trường tiến bộ, tự do, bình đẳng và dân chủ để làm nền tảng đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia như Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị đã đặt ra.
Triển khai tốt các chiến lược trên, tin rằng chúng ta sẽ thực hiện xuất sắc lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”, và hơn hết sẽ đưa dân tộc đang hướng tới 100 năm ngày thành lập nước, thực sự bước vào thời đại phát triển rực rỡ và huy hoàng nhất trong lịch sử đất Việt.