
Không nên nhầm lẫn công nghệ chuyển gene và chỉnh sửa gene
Tại diễn đàn, TS Nguyễn Duy Phương - Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử thuộc Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam thông tin, trên thế giới, công nghệ chỉnh sửa gene hiện đang phát triển mạnh, với khoảng 4.000 công bố khoa học mỗi năm trên các tạp chí khoa học uy tín.
Ứng dụng của công nghệ chỉnh sửa gene hiện đang tập trung vào các loại cây trồng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng chống chịu sâu bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Còn theo PGS-TS Nguyễn Phương Thảo thuộc Khoa Công nghệ sinh học, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu bệnh truyền nhiễm (Trường Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TPHCM) và đại diện Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam, công nghệ chỉnh sửa gene cho phép tác động chính xác vào từng vị trí trong bộ gene cây trồng, giúp lựa chọn những tính trạng mong muốn, tạo giống có khả năng chịu mặn, kháng bệnh, tăng giá trị dinh dưỡng hoặc kéo dài thời gian bảo quản, mà không cần đưa gene ngoại lai như công nghệ chuyển gene (GMO).
TS Nguyễn Duy Phương cũng cho biết thêm, bằng công nghệ chỉnh sửa gene, các sản phẩm gần như tương đồng với giống lai tự nhiên, đồng thời rút ngắn đáng kể thời gian (cũng như chi phí) chọn tạo xuống còn chỉ khoảng 2-5 năm, thay vì 10-15 năm như trước. Tuy nhiên, cần phải phân biệt rõ giữa công nghệ chuyển gene (transgenic technology) (tức là tạo sinh vật có ADN ngoại lai) và công nghệ chỉnh sửa gene (gene editing) - tức là thay đổi ADN nội sinh của chính sinh vật (cây trồng) đó.
Tại Việt Nam, nền tảng khoa học và nhân lực cho lĩnh vực này đã hình thành rõ nét. Nhiều đơn vị nghiên cứu như Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam, Viện Sinh học Việt Nam và một số trường đại học đã tiếp cận, triển khai và bước đầu làm chủ công nghệ chỉnh sửa gene, đạt được những kết quả trong nghiên cứu cơ bản và ứng dụng thử nghiệm, tạo ra nhiều sản phẩm cây trồng mới sẵn sàng đưa vào khảo nghiệm phục vụ sản xuất.
Gỡ nút thắt pháp lý
Tuy nhiên, theo TS Nguyễn Duy Phương, khó khăn nhất hiện nay là công nghệ chỉnh sửa gene đang vướng phải những nút thắt về pháp lý khiến công trình nghiên cứu chưa thể thương mại hóa. Vị tiến sĩ này nêu ý kiến: “Cần phải làm rõ và giúp nhiều người hiểu đầy đủ khái niệm chỉnh sửa gene không hoàn toàn là biến đổi gene, tránh nhầm lẫn với GMO. Cần điều chỉnh một số khái niệm trong Luật Đa dạng sinh học, chẳng hạn xác định rõ sinh vật biến đổi gene là sinh vật có cấu trúc di truyền bị thay đổi bằng công nghệ chuyển gene”.

Theo đại diện Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam, chỉnh sửa gene đã được xác định là công nghệ chiến lược. Vấn đề bây giờ là chúng ta cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho các nhà khoa học, doanh nghiệp ứng dụng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu này.

Cũng tại diễn đàn này, ông Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ KH-CN (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, một số quốc gia không xem sinh vật chỉnh sửa gene là GMO nếu việc chỉnh sửa không thêm gene từ loài khác hoặc không tạo ra tổ hợp gene mới trong sản phẩm cuối cùng.
Đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẳng định, nhiều nước đang áp dụng quan điểm cởi mở, coi công nghệ chỉnh sửa gene là công cụ quan trọng cho nông nghiệp bền vững. Việc đánh giá sản phẩm ngày càng dựa trên đặc tính của cây trồng cuối cùng thay vì quy trình công nghệ tạo ra nó, nhất là với các sản phẩm không chứa ADN ngoại lai. Ông Nguyễn Văn Long thừa nhận ở nước ta hiện Luật Đa dạng sinh học đã có khái niệm về sinh vật biến đổi gene và quy định khung pháp lý cơ bản để quản lý GMO nhưng đối với công nghệ chỉnh sửa gene, hệ thống pháp lý hiện vẫn chưa hoàn thiện.

Vụ trưởng Vụ KH-CN cho biết, Việt Nam đang xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Đa dạng sinh học năm 2008 để cập nhật khái niệm và quy định về chỉnh sửa gene, đồng thời xây dựng cơ chế quản lý và thương mại phù hợp với xu thế toàn cầu. “Một mặt chúng ta không tạo ra những rào cản, song cũng cần quản lý phù hợp, không buông lỏng”, ông Nguyễn Văn Long nói.
Cần có "Khoán 10" trong KH-CN
Phát biểu tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, Nghị quyết số 19 về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và gần đây là Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị đã tiếp tục nhấn mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chủ yếu để hiện đại hóa lực lượng sản xuất, đưa nền kinh tế Việt Nam tiến tới giá trị gia tăng cao hơn.

Tuy nhiên, dù nguồn lực và chủ trương đã có, việc hoàn thiện khung pháp lý vẫn là điều kiện tiên quyết để khoa học công nghệ phát huy hiệu quả.
“Chúng ta cần tạo môi trường và động lực để các nhà khoa học yên tâm cống hiến, tránh tình trạng nhà khoa học trăn trở với nghiên cứu nhưng vẫn lo lắng cho cuộc sống”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến phát biểu và đề nghị cần tạo ra một “Khoán 10” mới trong khoa học công nghệ, giúp “cởi trói” cho nhà khoa học, khuyến khích sáng tạo và khơi dậy tinh thần dấn thân trong cộng đồng khoa học.