Không đưa vào luật tiêu chuẩn cụ thể cao hơn đối với đại biểu Quốc hội

Đầu giờ chiều 19-6, trước khi họp nội dung bế mạc, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.
Quốc hội ngày 19-6. Ảnh: QUANG PHÚC
Quốc hội ngày 19-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Luật Tổ chức Quốc hội quy định số lượng đại biểu Quốc hội (ĐBQH) hoạt động chuyên trách ít nhất là 40% tổng số ĐBQH. Luật cũng quy định Văn phòng ĐBQH và HĐND cấp tỉnh là cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của các ĐBQH và Đoàn ĐBQH tại địa phương. Chính quyền địa phương ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm bố trí trụ sở làm việc cho Đoàn ĐBQH, tổ chức và bảo đảm kinh phí hoạt động cho Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND cấp tỉnh theo quy định của Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH).

Như vậy, chỉ thực hiện sáp nhập Văn phòng ĐBQH và HĐND cấp tỉnh, không sáp nhập với văn phòng UBND tỉnh. UBTVQH cũng đề nghị Quốc hội cho kết thúc việc thực hiện thí điểm theo Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14 về sáp nhập 3 Văn phòng; tổ chức Văn phòng tham mưu, giúp việc, phục vụ chung cho Đoàn ĐBQH và HĐND cấp tỉnh, Văn phòng tham mưu, giúp việc, phục vụ riêng cho UBND cấp tỉnh.

Đối với các địa phương đang thực hiện thí điểm sẽ chuyển ngay sang mô hình nêu trên; ở các địa phương còn lại sẽ hoàn thành việc chuyển giao và thực hiện từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và HĐND nhiệm kỳ 2021 - 2026. 

Theo giải trình của Ủy ban thường vụ Quốc hội, về ĐBQH, có ý kiến đề nghị sửa đổi quy định về tiêu chuẩn của ĐBQH là chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, UBTVQH thấy rằng, theo quy định tại Điều 4 của Luật Quốc tịch, “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.

Như vậy, bản thân cụm từ “có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” đã có nội hàm là chỉ có một quốc tịch Việt Nam, không có quốc tịch thứ hai. Hiện tại, ngoài Luật Quốc tịch, trong hệ thống pháp luật còn có ít nhất 2 luật khác đã sử dụng cụm từ “có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” để xác định yêu cầu chỉ có một quốc tịch của công dân Việt Nam, đó là Luật Cán bộ, công chức và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Vì vậy, nếu Luật Tổ chức Quốc hội bổ sung từ “chỉ” trước cụm từ “có một quốc tịch” sẽ tạo ra sự thiếu thống nhất, gây ra cách hiểu khác đối với quy định của các luật có liên quan.

Một số ý kiến đề nghị cần quy định tiêu chuẩn cụ thể cao hơn đối với ĐBQH, đồng thời không quy định tiêu chuẩn về độ tuổi đối với ĐBQH. Ý kiến khác không tán thành và cho rằng, ĐBQH là người đại diện cho các giai tầng khác nhau trong xã hội nên không thể quy vào một tiêu chuẩn chung. Về vấn đề này, theo quy định tại Điều 27 của Hiến pháp, công dân từ đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội.

Điều này có nghĩa Hiến pháp chỉ quy định điều kiện về độ tuổi tối thiểu của người ứng cử vào ĐBQH mà không có sự phân biệt đối xử hay hạn chế về thành phần xã hội, giới tính, dân tộc, tôn giáo, trình độ, năng lực chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn…

Do vậy, ngoài các tiêu chuẩn chung của ĐBQH đã được Luật Tổ chức Quốc hội quy định, nếu đặt ra các tiêu chuẩn cao hơn về trình độ chuyên môn, năng lực, kỹ năng làm việc (như am hiểu toàn diện các vấn đề kinh tế - xã hội, có khả năng tranh luận, tư duy phản biện, kỹ năng biểu đạt ý kiến…) thì sẽ làm hạn chế quyền ứng cử vào Quốc hội của công dân đã được quy định trong Hiến pháp.

Trong khi đó, theo quy trình bầu cử hiện nay, bên cạnh những người tự ứng cử thì phần lớn người tham gia ứng cử là đại diện do tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương lựa chọn, giới thiệu ứng cử để bảo đảm tỷ lệ đại diện hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong Quốc hội.

Bên cạnh đó, đối với mỗi loại cơ quan, tổ chức, đơn vị thì hiện đã có những quy định riêng của Đảng, quy định của từng cơ quan, tổ chức trong việc xác định tiêu chuẩn, điều kiện khi xem xét, lựa chọn nhân sự. Những nội dung, quy định này sẽ tiếp tục được nghiên cứu, rà soát để hoàn thiện, cụ thể hóa yêu cầu về tiêu chuẩn, điều kiện đối với người được giới thiệu ứng cử đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, của cử tri, phục vụ trực tiếp cho cuộc bầu cử ĐBQH khóa XV sắp tới.

Để nâng cao chất lượng của ĐBQH nói chung, từng cơ quan, tổ chức, đơn vị cần nâng cao trách nhiệm hơn nữa trong việc sàng lọc, lựa chọn, giới thiệu đại diện tiêu biểu, ưu tú nhất của mình tham gia ứng cử ĐBQH để cử tri có điều kiện lựa chọn người thực sự xứng đáng làm ĐBQH. Vì vậy, không bổ sung nội dung này trong dự thảo Luật.

* Thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng

Chiều 19-6, Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng và một số cơ chế, chính sách đặc thù khác.

Theo đó, Nghị quyết quyết nghị thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng. Chính quyền địa phương ở thành phố Đà Nẵng là cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND thành phố; chính quyền địa phương ở các quận thuộc thành phố Đà Nẵng là UBND quận. UBND quận là cơ quan hành chính nhà nước ở quận, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Nghị quyết này và theo phân cấp, ủy quyền của UBND, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng.

HĐND thành phố Đà Nẵng quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, trong đó bao gồm dự toán ngân sách của chính quyền địa phương cấp dưới; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm của thành phố Đà Nẵng, trong đó bao gồm kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung hạn và hàng năm của quận và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của phường; thông qua chủ trương thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính quận, phường...

Việc thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng được thực hiện từ ngày 1-7-2021.

Tin cùng chuyên mục